Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh Lớp 1 hòa nhập nhanh
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh Lớp 1 hòa nhập nhanh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh Lớp 1 hòa nhập nhanh
Nề nếp lớp 1 I. PHẦN MỞ ĐẦU I. 1. Lý do chọn đề tài: Buổi học đầu tiên ở Mẫu giáo là một bước ngoặc lớn trong đời của trẻ nó thay đổi hoàn tâm sinh lý các em. Nhưng ở đây các em đến lớp trong tâm trạng hoàn toàn lệ thuộc vào giáo viên, các em chưa có sự chủ định để xây dựng ra các mối quan hệ xung quanh. Mỗi hoạt động của các em đều phải do giáo viên hướng dẫn, các em chỉ được chơi, học trong một khuôn viên hẹp dưới sự giám sát của giáo viên. Nhưng bước sang lớp một là một môi trường hoàn toán khác với mẫu giáo. Một nơi học tập rộng hơn, nhiều người xa lạ hơn. Chính điều đó đã làm các em choáng ngợp và sợ hãi. Lúc này yêu tố hoạt động độc lập bắt đầu làm việc với cường độ cao nhất. Nêu em nào có tố chất mạnh mẽ se nhanh chóng hòa nhập còn những em có tâm lý yêu hơn sẽ khóc, sẽ không chịu đi học hoặc rụt rè ngồi một chỗ và không tham gia hoạt động với tập thể. Và đó cũng là nỗi vất vả nhất của người giáo viên dạy học sinh lớp một. Bắt đầu từ khi nhận lớp đến ít nhất cũng phải hết học kì I, các em mới ổn định trạng thái tâm lý để hòa nhập với lớp và tham gia học tập cũng như rèn luyện một cách tự giác và thi đua. Nhưng khi các em biết hòa nhập với tập thể thì lại là lúc các em hỏi mọi lúc mọi nơi và hỏi bất cứ điều gì muốn hỏi. Tính cạnh tranh thi đua bắt đầu thì cũng là lúc sự đó kị với bạn trong lớp xuất hiện trong mỗi suy nghĩ các em, chỉ cần ban trong lớp làm điều gì k ưng ý là các em lại thưa cô mà không cần biết đúng hay sai. Đó là khó khăn lớn nhất của người giáo viên dạy lớp 1, nếu tính kiên trì không cao, kĩ năng sư phạm chưa thật bền vững thì chắc chắn sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong dạy lớp 1. Với nhiều năm được nhà trường phân công dạy lớp 1 nên tôi cũng đã “Thấm nhuần” nỗi vất vả này. Tôi luôn suy nghĩ, trăn trở làm sao để vừa giúp các em hòa nhập nhanh môi trường học tập, đồng đều với tất cả các đối tượng học sinh. Bởi các em còn nhỏ, tính tự lập chưa có, ý thức tự giác cũng chưa cao. Thêm một điều nữa là nhiều gia đình hiện nay luôn cưng chiều theo ý muốn của con,.Tất cả đã làm cho các em chưa biết tự giác cũng chưa biết được những hành động đúng sai trong học tập và trong kỉ luật. Mặt khác với những đặc điểm sinh lí lứa tuổi của lớp một: Các Tôi dùng phương pháp này nhằm trò chuyện với đồng nghiệp, với phụ huynh học sinh và trò chuyện với các em để thu thập các minh chứng tâm sinh lý lứa tuổi lớp 1. c. Phương pháp tổng kết: Sau khi có được luận chứng từ các tài liệu kết hợp với minh chứng thu thập được tôi tổng hợp và phân tích kết quả sau do mới tiến hành lập kế hoạch triển khai thí nghiệm những biện pháp nghiên cứu. II. PHẦN NỘI DUNG: II.1. Cơ sở lí luận: Mỗi lứa tuổi trẻ phát triển đều kèm theo sự thay đổi rất nhiều về cảm xúc, tâm lý, tình cảm. Một là, chú ý có chủ định (tức chú ý có ý thức, chú ý vào việc học tập) của trẻ còn yếu, khả năng kiểm soát, điều khiển chú ý còn hạn chế. Ở giai đoạn này chú ý không chủ định (chú ý tự do) chiếm ưu thế hơn chú ý có chủ định. Sự tập trung chú ý của trẻ còn yếu và thiếu tính bền vững, dễ bị phân tán bởi những âm thanh, sự kiện khác ngoài nội dung học tập. Trẻ thường quan tâm chú ý đến những môn học, giờ học có đồ dùng trực quan sinh động, hấp dẫn có nhiều tranh ảnh, trò chơi hoặc có cô giáo xinh đẹp, dịu dàng, Thời gian chú ý có chủ định chỉ kéo dài tối đa từ 25 đến 30 phút. Hai là, tri giác các em mang tính đại thể, ít đi vào chi tiết và mang tính không ổn định, tri giác thường gắn với hình ảnh trực quan. Vì vậy, chúng ta cần phải thu hút trẻ bằng các hoạt động mới, mang màu sắc, tích chất đặc biệt, khác lạ so với bình thường, khi đó sẽ kích thích trẻ cảm nhận, tri giác tích cực và chính xác. Đây là một trong những đặc điểm tâm lý của học sinh lớp 1 cần được khai thác và phát triển. Ba là, tưởng tượng của học sinh lớp 1 đã phát triển phong phú hơn so với trẻ mầm non nhờ có bộ não phát triển và vốn kinh nghiệm ngày càng nhiều. Tuy nhiên, tưởng tượng của các em vẫn còn đơn giản, chưa bền vững và dễ thay đổi. Bốn là, hầu hết học sinh tiểu học có ngôn ngữ nói thành thạo. Khi trẻ vào lớp 1 bắt đầu xuất hiện ngôn ngữ viết. Nhờ có ngôn ngữ phát triển mà trẻ có khả năng tự đọc, tự học, tự nhận thức thế giới xung quanh và tự khám phá bản thân thông qua các kênh thông tin khác nhau. Năm là, trong giai đoạn lớp 1,2 ghi nhớ máy móc phát triển tương đối tốt và chiếm ưu thế hơn so với ghi nhớ có ý nghĩa. Nhiều học sinh chưa biết tổ chức việc Lớp 1A có 35 học sinh nhưng đối tượng học sinh chưa được đồng đều. Trong lớp còn một số em học sinh nam hay nghịch. Bên cạnh đó đa số gia đình học sinh đều làm nghề nông nghiệp bố mẹ các em làm nông nên thường giao phó con cái cho nhà trường. Một số ít gia đình có bố mẹ làm ăn xa nên chưa quan tấm đến việc học tập con cái. Điều này gây không ít khó khăn cho giáo viên ngày từ những buổi đầu nhận lớp. b.Thành công - hạn chế: Cũng như tên gọi của đề tài là bước đầu xây dựng kĩ năng hòa nhập tập thể cho học sinh lớp một, nên thành công của đề tài là giúp các em nhanh chóng ổn định nề nêp lớp học ngày từ những buổi đầu như: Biết cách xếp hàng ra vào lớp nhanh, nghiêm túc. Biết vào lớp ngồi đúng vị trí của mình không chọc ghẹo bạn bên cạnh. Biết xin phép thầy, cô khi đi ra ngoài. Biết tên thầy cô và các bạn trong lớp, ngoài lớp, thực hiện đi học đều, đúng giờ, tự lấy đồ dùng học tập và đặc biệt biết giúp đỡ lẫn nhau trong học tập cũng như trong vui chơi. Đồng thời đã hạn chế được nhiều thói hư, tật xấu cho học sinh như: Nói chuyện riêng trong giờ học, đi học trễ, quên đồ dùng học tập, nói leo, nghỉ học tùy tiện, chạy ra khỏi chỗ trong giờ học hay lấy đồ dùng của bạn + Hạn chế: - Làm mất rất nhiều thời gian của giao viên khi thực hiện đề tài bởi để đưa các em vào khuôn khô một cách nhẹ nhàng nhưng nghiêm túc thì đòi hỏi giáo viên phải biết tâm lý từng em trong lớp (trong khi đó lớp rất đông, 35 em) 3. Giải pháp, biện pháp: a. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp: Nắm bắt được tâm sinh lý lứa tuổi học sinh lớp 1 nên mục tiêu của giải pháp tôi đưa ra gồm 4 nội dung: Thứ nhất là xây dựng nội quy lớp học, bước đầu đưa các em vào rèn luyện dựa trên một nguyên tắc nhất định để giúp các em hòa nhập nhanh với lớp. Thứ hai: lập kế hoạch học tập và sinh hoạt theo hình thức có chủ định. Thứ ba: từng bước khắc phục những thói quen, nhược điểm ban đầu của các em để thưc hiện tốt nhiệm vụ học tập Thư tư: giúp các em trau dồi hành vi đạo đức để góp phát phát triển nhân cách và kĩ năng sống. b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp: Ở tuần đầu ổn định tôi lựa chọn các chỗ ngồi cho học sinh phù hợp với thái độ từng em. Ví dụ xếp những em hay nghịch lên ngồi trên hay chỗ tiện cho giáo viên để bao quát. Xếp từ em thấp đến em cao. Cứ một em giỏi ngồi với một em yếu, một em khá ngồi với một em học lực trung bình, một em hay nghịch ngồi với một em ngoan Tuy nhiên trong kế hoạch đề ra tôi luôn lồng ghép các trò chơi học tập vào bài học và luôn vui vẻ tận tjuy với các em để tạo ra môt môi trường thân thiện. Làm cho các em có cảm giác ấm áp và gần gũi, hình ảnh cô giáo như mẹ hiền sẽ luôn sống mãi trong lòng các em. Trường hợp những học sinh nào chưa vào khuôn khổ kịp tôi thường lấy bảng thành tích và nêu gương những em giỏi, ngoan để khích lệ. Đặc điểm của học sinh lớp 1 rất thích cô giáo khen trước lớp. Đây có thể được xem là một vũ khí hữu hiệu nhất của tôi để đưa những em chưa kịp hòa nhập với lớp đi vào nề nếp. Tôi đã rât vất vả tìm hiểu hoàn cảnh của từng em để biết được nguyên nhân vì sao em này hay đi học muộn, vì sao em này chưa có đồ dùng, hay nghỉ học Từ đó mới có hướng để động viên hay giúp đỡ. Để có biện pháp giáo dục hay nhắc nhở kịp thời, đúng lúc. Cứ đầu giờ học, tôi đến sớm 15 phút theo nội quy đã học để năm bắt tình hình của lớp sau đó tổ chức dạy học phù hợp với thái độ các em. Để các em tiếp thu bài giảng một cách nhẹ nhàng và có hiệu quả cao. Chẳng hạn sáng hôm đó có học sinh đến lớp không chịu vào lớp và khóc thì tôi đã dẫn các em vào và hỏi chuyện về nội quy lớp học, về những bôn hoa em đó đã đạt nhằm xua tan sự sợ hãi ban đầu. Trong giờ học tôi thường chú ý và tạo không khí vui vẻ để các em quên nhanh và tham gia học tập. Ví dụ: Khi dạy bài vần Ắt, sau khi cho học sinh đọc nối tiếp đoạn “Dỗ bé”, tôi liền tổ chức một trò chơi nhanh là cho hai học sinh đóng vai, một em đóng vai khóc nhè, một em đóng vai chị dỗ giành em. Chính em lúc sánh khóc nhè sẽ nhập vai người chị. Cứ như thế tối đã tèng bước đưa cac e vạo làm việc trên một kế hoạch có chủ định giúp các em hòa nhập nhanh. Biện pháp 3: từng bước khắc phục những thói quen, nhược điểm ban đầu của các em để thực hiện tốt nhiệm vụ học tập Do đặc điểm của học sinh lớp 1 buổi đầu tiên cắp sách đến trường nên hầu hết các em chưa có ý thức về nề nếp trong học tập. Việc học tập đối với các em hoàn toàn mới, lạ. Khác hẳn với ở lớp mẫu giáo. Nên giáo viên cần rèn cho các em có một thói Ngoài việc bản thân trực tiếp giúp đỡ thì các tổ chức trong nà trường cũng là thành phần không thể thiếu trong việc giup các em phát triển nhân cach và kĩ năng sóng. Vì các em học sinh ở lớp 1 đa số là chờ vào sự quan tâm của thầy, cô và người lớn. Nên người giáo viên ngoài việc dạy kiến thức còn giúp cho các em hiểu và biết phân biệt được cái đúng, cái sai, điều tốt, điều xấu, những việc nên làm và không nên làm Đó chính là rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh lớp 1. Bên cạnh đó, hàng ngày, tôi còn phân công cho các em làm vệ sinh lớp học. Vào chiều thứ tư hàng tuần các lớp đi lao động vệ sinh sân trường. Để từ đó các em biết làm quen với những công việc đơn giản như: Biết quét nhà, quét sân, lau nhà, nhặt rác, nhổ cỏ,Tôi luôn nhắc các em rửa tay, rửa chân đúng lúc hợp vệ sinh. Cứ mỗi lần đến lớp tôi luôn làm trước và hướng dãn các em cùng làm. Giáo viên luôn làm gương sáng cho học sinh noi theo. Qua lời nói và từng việc làm cụ thể. Để chứng tỏ được “ Cô giáo như mẹ hiền”. Cô giáo là người mẹ thứ hai của các em. Thứ hai: Trao đổi và hợp tác với phụ huynh học sinh. Đây cũng là một nhiệm vụ rất cần thiết vì gia đình là cái nôi của xã hội là nơi hình thành nhân cách ban đầu cho các em nên tôi lấy đó làm điểm tựa và là nơi thường xuyên trao đổi với gia đình các em để cùng nhau gúp các em loại bỏ những thói quen sai và nhanh hòa nhập cới lớp để học tập tốt. Cuối mỗi tuần học, tôi gửi cho phụ huynh một bông hoa thành tích và hướng dẫn phụ huynh động viên các em học tập vui chơi ở nhà. Nếu các em thực hiện chưa tốt thì tuần đó các em không được dán bông hoa lên cây thành tích. Và tôi sẽ giúp cac em điều chỉnh lại những sai trái đó. Tóm lại: Giáo dục nề nếp cho học sinh phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và cộng đồng. Nhằm tạo ra một môi trường giáo dục khép kín, tạo ra bầu không khí đạo đức xung quanh trẻ. Để hình thành và phát triển tư tưởng, tình cảm, hành vi và thói quen về nề nếp học tập tốt hơn. e. Kết quả khảo nghiệm của vấn đề nghiên cứu: Đầu năm học 2018-2019, tôi tiến hành lập kế hoạch và bắt đầu tổ chức các biện pháp trên thí điểm tại lớp 1A, tôi đã thấy nhiều kết quả rõ rệt: - 100% học sinh biết xếp hàng ngay từ cuối tuần học đầu tiên. - 100% học sinh tự giác vào lớp không có em nào nũng nịu bố mẹ hoặc khóc nhè. - Tháng đầu tiên không có học sinh thiêu hoa thành thích. Các em đều đạt được nội dung mà giáo viên đặt ra. (35/35 bông hoa thành tích) - Về kết quả các phong trào khác: + Thi chữ đẹp cấp trường: có 01 giải nhì; 02 giải ba + Thi Tiếng anh cấp huyện: 1 giải nhì, 02 giải ba Với kết quả học tập như trên ở cuối năm học, tôi đã thấy có sự thay đổi rất lớn trong lớp 1A5. Điều đó cho thấy rằng nhũng biện pháp tôi thực hiện đã có tính khả thi, do vậy tôi đã tiến hành thực hiện ngày từ đầu năm học 2015-2016 đối với lớp 1A3 và đã cho thấy rất nhiều có sự tiến bộ - 100% học sinh biết xếp hàng ngay từ cuối tuần học đầu tiên. - 100% học sinh tự giác vào lớp không có em nào nũng nịu bố mẹ hoặc khóc nhè. - Tháng đầu tiên không có học sinh thiêu hoa thành thích. Các em đều đạt được nội dung mà giáo viên đặt ra. (35/35 bông hoa thành tích) - 27/35 em không nói chuyện riêng trong giờ học. - Tuần thứ 3 số học sinh quên đồ dùng học tập chỉ còn 4/35 em III. PHẦN KIẾN NGHỊ VÀ KẾT LUẬN III. 1. Kết luận: Tổ chức cho học sinh lớp 1 biết hòa nhập nhanh mọi nội dung của lớp học và thực hiện tốt nhiệm vụ học tập và rèn luyện là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của mỗi giáo viên. Nhưng để thực thiện được như thế thì mỗi giao viên lại có những phương pháp sư phạm khác nhau. Với tôi những biện pháp, giải pháp vừa trình bày ở trên tôi đã nghiên cứu rất kỹ lưỡng trước khi tiến hành. Thậm chí sau một thời gian thí nghiệm cho thấy nhiều kết quả khả quan và tôi đã soạn thảo thành nội dung của một sáng kiến kinh nghiệm. Tôi đã trình bày những ý tưởng đó với Hội đồng khoa học cấp cơ sở và được đánh giá cao. Hội đồng khoa học đã cho phép tôi áp dụng đại trà tại lớp 1A của năm học 2018-2019. Sau một thời gian thực hiện, một kết quả tốt đẹp đã đến đó là: Lớp học đã có nề nếp học tập thực sự, sự chuyển biến rõ rệt về nề nếp học tập đã làm cho chất lượng giảng dạy được nâng cao: Giáo viên say sưa với bài giảng, học sinh hứng thú với bài học và điều hết sức quan trọng đó là chất lượng học tập của các em có tiến bộ rõ rệt, các em đoàn kết và thương yêu biết giúp đỡ lẫn nhau, lớp học có tính đồng đội, tính kỷ luật cao. Các em đã có thói quen tốt, có ý thức
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_giup_hoc_sinh_lop_1_h.docx