Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh Lớp 1 rèn chữ hiệu quả

docx 30 trang sklop1 11/03/2024 1800
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh Lớp 1 rèn chữ hiệu quả", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh Lớp 1 rèn chữ hiệu quả

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh Lớp 1 rèn chữ hiệu quả
 ỦY BAN NHÂN DÂN HUYỆN THANH TRÌ
 TRƯỜNG TIỂU HỌC TẠ HOÀNG CƠ
 &&&&&&&&
 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 1
 RÈN CHỮ HIỆU QUẢ
 Lĩnh vực : Tiếng Việt
 Cấp học : Tiểu học
 Tên tác giả : Hoàng Yến Minh
 Đơn vị công tác : Trường Tiểu học Tạ Hoàng Cơ 
 Chức vụ : Giáo viên
 Năm học: 2022 - 2023 PHẦN 1 - PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài.
 Chữ viết của học sinh Tiểu học là vấn đề được mọi người trong và ngoài 
ngành Giáo dục và Đào tạo quan tâm lo lắng. Người xưa đã nói : “Nét chữ nết người” 
là hàm ý nét chữ thể hiện tính cách con người; thông qua rèn luyện chữ viết mà giáo 
dục nhân cách con người. Vì vậy phong trào “Giữ vở sạch - Viết chữ đẹp" vừa là 
mục đích, vừa là phương tiện trong quá trình rèn luyện học sinh. Viết đúng, dẫn tới 
việc viết đẹp, nó góp phần vào việc giáo dục toàn diện cho học sinh tiểu học. Mặt 
khác, chữ viết là một trong những công cụ dùng để giao tiếp và trao đổi thông tin, 
là phương tiện để ghi chép và tiếp nhận những tri thức văn hóa, khoa học và đời 
sống... Bởi vậy, việc dạy viết chữ và từng bước làm chủ được công cụ chữ viết để 
phục vụ cho học tập và giao tiếp. Đây là yêu cầu quan trọng hàng đầu của môn Tiếng 
Việt ở trường tiểu học. Như ta đã biết, các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết làm tính là 
các kĩ năng cơ bản không thể thiếu được trong quá trình học tập của các em. Tất cả 
các kỹ năng đó đều phải được rèn luyện, song việc rèn chữ viết cho học sinh Tiểu 
học là việc làm rất quan trọng bởi lẽ các em hiểu được nội dung bài học và nói ra 
được bằng lời. Để ghi lại những vấn đề các em hiểu được, đúc rút được qua quá 
trình học tập thì các em phải sử dụng chữ viết. Do đó, đối với các em, việc viết chữ 
đẹp, đúng chính tả là vô cùng quan trọng. Nó vừa rèn luyện cho các em sự kiên trì, 
tính cẩn thận, khiếu thẩm mỹ, lòng say mê trong học tập và là điều kiện để học tốt 
những môn học khác. Học sinh viết chữ đẹp là một thuận lợi trong việc tiếp thu bài, 
góp phần nâng cao chất lượng ở tất cả các môn học. Ngược lại, các em viết chữ xấu, 
chậm là một cản trở trong việc tiếp thu kiến thức mới ở các môn học và ảnh hưởng 
đến chất lượng học tập của các em.
 Đối với học sinh lớp 1, việc rèn chữ là một yêu cầu hết sức quan trọng và cấp 
thiết, giúp các em viết thạo. Qua đó rèn luyện cho học sinh những phẩm chất đạo 
đức tốt như tính cẩn thận, tinh thần kỉ luật và khiếu thẩm mỹ. Viết đúng mẫu, viết 
đẹp, rõ ràng và nhanh, học sinh sẽ có điều kiện ghi chép bài học của tất cả các môn 
học tốt hơn. Nếu ngay từ lớp 1, giáo viên không chú ý rèn luyện uốn nắn cho học 
sinh thì sau này học lên các lớp trên sẽ tạo thành thói quen khó sửa.
 Tính đến nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã nhiều lần ban hành những quy định 
về chữ viết ở Tiểu học. Sau nhiều lần thay đổi, hiện nay đã quay trở về với mẫu chữ 
mềm mại, thanh gọn hơn trước kia nhằm giúp học sinh viết chữ đẹp và có thẩm mĩ 
hơn. Tuy nhiên, lại có những điều làm được và chưa làm được. Thực trạng chữ viết 
của học sinh hiện nay nhiều em viết đẹp song thiếu chính xác về độ cao, độ rộng, 
khoảng cách, sai lỗi chính tả, hoặc viết quá chậm. Thậm chí có những học sinh đọc PHẦN 2 - NỘI DUNG
 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN, CƠ SỞ THỰC TIỄN
 1. Cơ sở lí luận
 Chữ viết là một trong những phát minh gây ấn tượng nhất, là thành tựu đánh 
dấu sự phát triển của nhân loại. Việc hình thành và xây dựng những thói quen tốt về 
chữ viết cho học sinh là một trong những nội dung giáo dục quan trọng. Mặt khác, 
chữ viết còn thể hiện nền văn hoá, sự tinh hoa của một dân tộc. Cố thủ tướng Phạm 
Văn Đồng đã nói: “Chữ viết cũng là biểu hiện của nết người. Dạy cho học sinh viết 
đúng, viết đẹp là góp phần rèn luyện cho em tính cẩn thận, lòng tự trọng đối với 
mình cũng như thầy và bạn khi đọc bài vở của mình”.
 Trong thực tế, đôi khi chỉ qua chữ viết của một người ta có thể nhận ra một 
vài nét về tính cách của họ. Nhưng quan trọng hơn là cùng với lời nói, chữ viết là 
phương tiện giao tiếp của con người. Chữ viết đúng, sạch, đẹp, rõ ràng không những 
giúp người đọc dễ hiểu mà còn tạo thiện cảm với người đọc.
 Khi đủ tuổi vào lớp 1, các em đã phát âm được một số âm và các tiếng của 
mẹ đẻ. Một số em đã học mẫu giáo thì nhận dạng được chữ cái, biết gọi tên các chữ 
cái trong chữ nhưng chưa biết dùng ký hiệu để ghi lại từng âm vị. Môn học Tiếng 
Việt giúp các em nắm được kiến thức về ngôn ngữ, học để giao tiếp bằng ngôn ngữ, 
học để cảm nhận cái hay, cái đẹp của ngôn từ Tiếng Việt và phần nào hiểu được 
những vấn đề của cuộc sống.
 Như vậy, môn Tiếng Việt lớp 1 là nền móng của cấp Tiểu học. Dạy Tiếng 
Việt lớp 1 có nhiệm vụ rất lớn lao là trao cho các em chiếc chìa khoá để vận dụng 
chữ viết khi học tập và là công cụ để các em sử dụng suốt đời. Đối với học sinh lớp 
1, yêu cầu cơ bản và quan trọng nhất trong học Tiếng Việt là đọc thông, viết thạo 
mà cần thiết hơn cả là chất lượng chữ viết. Vậy học sinh lớp 1 phải biết xác định 
đường kẻ, dòng kẻ, phải viết đúng kích cỡ, độ cao, độ rộng... Nói chung phải có kỹ 
năng viết đúng quy trình, đây là cơ sở để các em viết chữ đẹp, rõ ràng, linh hoạt, 
đúng mẫu chữ ở các lớp trên. Kỹ năng viết được thực hành trước hết trong các phần 
tập viết của giờ Tiếng Việt, trong các tiết tập viết và được củng cố hoàn thiện ở các 
môn học khác. Đồng thời với việc rèn chữ, các em học sinh sẽ có cơ hội rèn luyện 
tính cẩn thận, sự khoa học, óc thẩm mỹ, tình yêu Tổ quốc, yêu đất nước và tiếng mẹ 
đẻ.
 2. Cơ sở thực tiễn.
 Học sinh lớp 1 ngày đầu tiên đi học ở trường Tiểu học còn rất nhiều bỡ ngỡ. Đa số học sinh đã được qua lớp mẫu giáo nên nề nếp được ổn định ngay từ 
đầu năm học. Học sinh lớp 1 mới làm quen với kiến thức mới nên các em rất thích 
học, ham đọc, ham viết.
 2. Khó khăn
 2.1. về phía giáo viên
 Một số giáo viên chưa chú trọng nhiều đến việc rèn chữ giữ vở cho học sinh, 
chưa nhiệt tình và sát sao tới những học sinh hiếu động nên việc rèn chữ cho học 
sinh đạt hiệu quả chưa cao.
 Đối với từng bài, từng tiết GV vẫn nghiên cứu chưa kỹ nên chưa hiểu hết ý 
đồ của SGK, dẫn đến trong tiết dạy GV chưa biết vận dụng, phối hợp các phương 
pháp và hình thức dạy học cho phù hợp theo từng nội dung kiến thức, từng dạng bài 
yêu cầu.
 Trong quá trình lên lớp, GV tuy đã có nhiều cố gắng nghiên cứu các tài liệu 
tham khảo và sách giáo viên để nắm quy trình của tiết dạy, các hoạt động dạy học 
cụ thể để vận dụng. Nhưng trong quá trình giảng dạy, do đặc điểm tình hình của lớp 
hay do những yếu tố khác nên khi vận dụng đã có những điểm tồn tại như đưa ra 
các hoạt động dạy học chưa phù hợp, chưa cụ thể làm ảnh hưởng rất lớn đến chất 
lượng tiết dạy.
 Việc tổ chức các hình thức chưa hợp lý. Thời gian bố trí cho từng hoạt động 
chưa phù hợp, hệ thống câu hỏi và hình thức thực hành bài tập chưa đảm bảo yêu 
cầu, chưa phân loại đối tượng HS để bồi dưỡng HS hoàn thành khá tốt và giúp đỡ 
HS chưa hoàn thành trong tiết học.
 2.2. về phía học sinh
 Một số học sinh chưa qua lớp mẫu giáo, chưa có kĩ năng cầm bút và chưa 
quen nề nếp học tập. Học sinh hiếu động nhiều, thiếu tập trung trong khi học . Đời 
sống kinh tế của một số phụ huynh gặp khó khăn, một số phụ huynh phải đi làm ăn 
xa, để cọn lại cho ông bà chăm sóc bảo ban nên sự quan tâm đến việc học tập của 
con em còn hạn chế ...........................
 Mặt khác các em chuyển từ hoạt động vui chơi sang hoạt động học nhiều hơn, 
phải viết nhiều các em mỏi tay dẫn đến nản chí khi viết . Khả năng vận động tri giác, 
chú ý còn hạn chế. Có em không biết viết hoặc chỉ viết chữ in, chưa xác định đúng 
được dòng kẻ, viết không đúng mẫu chữ, ngồi viết chưa đúng tư thế vì còn mải chơi, 
hiếu động.
 Khi viết các em chưa xác định được điểm đặt bút, điểm dùng bút khi viết chữ. em trong môn Tiếng Việt, đặc biệt là phần viết. Để các em coi việc tập viết là nhu 
cầu, mong muốn được chinh phục chứ không phải nhiệm vụ mà các em phải hoàn 
thành một cách bắt buộc. Để đạt được mục tiêu này, người giáo viên phải thực hiện 
các hoạt động sau:
 2.1.1. Nâng cao tinh thần tự học, bồi dưỡng chuyên môn và nghiệp vụ của bản 
thân.
 Là một giáo viên, nếu muốn học sinh của mình viết chữ đẹp, yêu chữ thì bản 
thân giáo viên cũng phải yêu chữ, là tấm gương viết chữ đẹp.
 Trước tiên người giáo viên cần nắm chắc kiến thức, nắm chắc chữ mẫu thì 
giáo viên mới hướng dẫn học sinh viết đúng và viết đẹp.
 Chữ mẫu của giáo viên là phương tiện quan trọng để dạy học sinh viết đúng, 
đẹp. Người giáo viên phải coi trọng việc trình bày trên bảng là trang viết mẫu cho 
học sinh noi theo. Do vậy, việc khổ công rèn luyện viết đúng, viết đẹp, viết rõ ràng 
và ngay ngắn là tiêu chí mà mọi giáo viên đều phải đặt ra và thực hiện bằng được 
trong từng giờ học, trong từng cách trình bày bảng sao cho khoa học, đẹp mắt (phụ 
lục 1).
 Bản thân tôi cũng vậy, tôi luôn sắp xếp công việc để dành thời gian để tự học, 
tự rèn chữ để nâng cao trình độ chuyên môn. Khi tôi đã luyện viết được chữ đúng 
theo quy định của bộ giáo dục, tôi còn học hỏi thêm cách viết chữ sáng tạo, trang trí 
bảng trong các giờ ngoại khóa như: đầu năm học, tết trung thu, chào mừng ngày 20-
11.... Tôi nhận thấy, khi thực hiện hoạt động này học sinh rất vui, hứng thú quan sát 
từng nét chữ của cô với đôi mắt trầm trồ, ngưỡng mộ, đầy thán phục. Nhiều em còn 
có cử chỉ bắt chước, đưa tay vẽ theo cô hoặc về nhà vẽ lại, thậm trí còn tìm cách 
đánh vần, đọc nội dung mà cô viết trên bảng. Lúc đó tôi hiểu rằng tôi đã truyền được 
cảm hứng yêu chữ tới học sinh thân yêu của mình (phụ lục 2)
 2.1.2. Nêu những tấm gương thực tế về việc rèn chữ từ xưa đến nay.
 Để bồi dưỡng thêm cho các em tinh thần quyết tâm rèn chữ, tôi còn kể cho 
các em nghe về các tấm gương rèn chữ như câu truyện quyết tâm rèn chữ của Cao 
Bá Quát, câu truyện viết chữ đầy nghị lực của thầy Nguyễn Ngọc Ký, hay gần nhất 
là chữ viết những học sinh khóa trước mà tôi đã dạy. Từ đó học sinh có thể học hỏi 
tính kiên trì, lòng say mê viết chữ, hay tự đánh giá, so sánh với bản thân từ đó tiếp 
thu chữ viết đúng, viết đẹp (phụ lục 3).
 2.1.3. Động viên, khích lệ kịp thời.
Cựu Bộ trưởng Bộ Giáo dục Mỹ Terrel Bell đã nói rằng: “Có ba điều cần nhớ trong học đầu tiên các em đã phải làm quen và nắm được. Tuy nhiên trong thời điểm đó, 
các con mới chuyển cấp lên lớp 1 thì việc xác định chiều cao các con chữ vô cùng 
khó khăn. Nhưng ở mầm non các em lại có tư duy về vẽ rất đơn giản như vẽ một 
hình vuông cũng được coi là vẽ nhà. Chính vì vậy tôi đã có cách hướng dẫn các con 
xác định chiều cao con chữ bằng phương pháp xây nhà tầng. Đầu tiên giáo viên sẽ 
hướng dẫn học sinh xây các ngôi nhà với số tầng khác nhau:
 + Nhà 2 tầng là nhà của các con chữ: a, ă, â, o, ô, ơ, e, ê, i, m, n, u, ư, v, x
 + Nhà 3 tầng là nhà của con chữ: t
 + Nhà 4 tầng là của con chữ d, đ
 + Nhà 5 tầng là của các con chữ b, h, k, l
 + Nhà có 2 tầng cao và 2 tầng hầm là của chữ q, p
 + Nhà có 2 tầng cao và 3 tầng hầm là của các con chữ g, y.
 Tổ chức trò chơi “tìm nhà cho chữ”: Giáo viên chọn 6 học sinh cầm bảng 6 nhà 
tầng với độ cao khác nhau. Sau đó phát cho học sinh các tấm bìa có các con chữ viết 
thường. Yêu cầu học sinh đi tìm đúng nhà cho con nhữ mà mình cầm. Ví dụ HS cầm 
chữ a sẽ tìm đến nhà 2 tầng.
 Sau khi sử dụng phương pháp này học sinh sẽ rất hứng thú và khả năng ghi 
nhớ rất tốt về chiều cao các con chữ mà sắp tới các con sẽ được học (phụ lục 5).
 Ví dụ 2: Xác định dấu thanh qua trò chơi vận động đơn giản: Trong chương 
trình học Tiếng Việt 1, các em không chỉ tiếp cận với các con chữ mà còn học về 
các dấu thanh để có thể tạo thành từ, câu chính xác hơn. Đối với lớp 1 các em rất 
hay mắc lỗi khi viết các dấu thanh như: dễ nhầm lẫn giữa dấu sắc dấu huyền, viết 
ngược dấu hỏi, dấu ngã và nhầm lẫn dấu do tiếng địa phương. Vì vậy tôi đã nghĩ ra 
trò chơi vận động rất đơn giản giúp các e ghi nhớ và viết đúng các dấu thanh hiệu 
quả. Hướng dẫn các em sử dụng những hành động cơ thể để biểu thị các dấu:
 + Dấu huyền: Đưa tay phải lên trước đầu, cánh tay nghiêng về bên trái 45 độ. + 
 Dấu sắc: Đưa tay trái lên trước đầu, cánh tay nghiêng về bên phải 45 độ.
 + Dấu hỏi: Đưa tay phải lên trên đầu, tay uốn cong tại thành hình dấu hỏi.
 + Dấu ngã: Tay khoanh trước ngực, tạo biểu tượng hình dấu ngã.
 + Dấu nặng: Hai tay nắm tròn để thẳng xuống dưới bụng.
 (phụ lục 6)
 Tổ chức cho HS chơi trò chơi “Ai nhanh, ai đúng” để học sinh nhớ và hào hứng 

File đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_giup_hoc_sinh_lop_1_r.docx