Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp xây dựng mối quan hệ gần gũi, thân thiện giữa cô và trò ở Lớp 1

docx 31 trang sklop1 08/01/2024 3442
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp xây dựng mối quan hệ gần gũi, thân thiện giữa cô và trò ở Lớp 1", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp xây dựng mối quan hệ gần gũi, thân thiện giữa cô và trò ở Lớp 1

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp xây dựng mối quan hệ gần gũi, thân thiện giữa cô và trò ở Lớp 1
 PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO QUẬN THANH XUÂN
 TRƯỜNG TIỂU HỌC THANH XUÂN NAM 
 ................
 
 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP XÂY DỰNG MỐI QUAN HỆ
 GẦN GŨI, THÂN THIỆN GIỮA CÔ VÀ TRÒ
 Lĩnh vực : Chủ nhiệm
 Cấp học : Tiểu học
 Tên tác giả : Trần Thị Nụ
 Đơn vị công tác: Trường tiểu học Thanh Xuân Nam
 Chức vụ : Giáo viên
 Năm học 2018 – 2019 PHẦN THỨ NHẤT: ĐẶT VẤN ĐỀ
 I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
 Nhà nước và nhân dân ta luôn quan tâm việc bảo vệ và chăm sóc trẻ em, 
coi đây là sự nghiệp cao quý, là trách nhiệm to lớn đối với thế hệ tương lai, đối 
với tiền đề của dân tộc và của đất nước. Là người giáo viên dưới mái trường xã 
hội chủ nghĩa, hơn ai hết chúng ta phải thấy được trọng trách của mình trong sự 
nghiệp “trồng người”. Làm sao cho học sinh yêu thích học tập cũng như hăng 
hái tham gia các hoạt động tập thể, sao cho các con cảm thấy trường học là ngôi 
nhà thứ hai của mình và mỗi ngày đến trường của các con thực sự là một ngày 
vui...Để đạt được điều đó, trước tiên các con phải thích học. Từ kinh nghiệm 
thực tế, tôi nhận thấy học sinh thích đi học là những học sinh tìm được niềm vui 
khi tới lớp, những học sinh đó được thầy yêu, bạn mến và việc học tập đối với 
các con không mấy vất vả. Học sinh đến trường phải có niềm vui, có vui mới 
học được tốt. 
 Học sinh lớp Một được ví như tờ giấy trắng rất hồn nhiên trong quan hệ 
với các bạn và mọi người xung quanh. Học sinh rất tin vào những điều được 
học, được nghe hằng ngày thầy cô dạy bảo. Vậy làm thế nào để tạo dựng được 
mối quan hệ thân thiện giữa cô và trò để từ đó lôi cuốn học sinh tham gia tích 
cực vào việc học tập là điều mà tôi đã từng băn khoăn trăn trở bấy lâu nay. Cuối 
cùng tôi cũng tìm ra được một giải pháp tốt nhất cho học sinh lớp tôi chủ nhiệm, 
đó là: “Một số biện pháp xây dựng mối quan hệ gần gũi, thân thiện giữa cô và 
trò.” Từ đó kích thích học sinh hăng say học tập.
 II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
 Vào năm học mới, tôi định hướng trước cho mình phải gây được tâm thế 
cho học sinh trong những ngày đầu năm học để rồi dẫn dắt các con bước vào 
năm học đầy tự tin và phấn khởi. Để có được kết quả tưởng chừng như đơn giản 
thế thôi nhưng cách thức để đi đến cái đích đó thật không đơn giản chút nào. Có 
được niềm vui cho trẻ không phải tạo ra được từ một giờ học, một ngày học hay 
một tuần học mà phải lôi cuốn, gây hứng thú cho học sinh trên một bình diện 
rộng ở mọi nơi, mọi lúc, qua giao tiếp, qua cách cư xử, dạy dỗ của giáo viên cho 
học sinh. Do vậy đòi hỏi người giáo viên phải thật nhẫn nại, có tình thương 
chân thực với học trò. Chỉ có tình thương yêu thực sự và lòng cảm thông của cô 
mới xây dựng mối quan hệ thân thiện giữa cô và trò, từ đó góp phần kích thích 
học sinh hăng say học tập. 
 III. ĐỐI TƯỢNG, THỜI GIAN VÀ PHẠM VI NGHIÊN cøu
 - Đối tượng nghiên cứu: Học sinh khối lớp Một;
 1/29 PHẦN THỨ HAI: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
 I. NHỮNG CƠ SỞ LÍ LUẬN
 1. Những căn cứ khoa học
 1.1 Luật giáo dục (ban hành năm 2005)
 Chương 2, mục 2, điều 23 của luật giáo dục đã chỉ rõ mục tiêu của giáo 
dục Tiểu học: “Giáo dục Tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở 
ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm 
mĩ và các kĩ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học Trung học cơ sở.”
 Chương 2, điều 3 có chỉ rõ hoạt động giáo dục phải thực hiện theo nguyên 
lí học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lí luận gắn với 
thực tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và xã hội.
 1.2 Điều lệ trường Tiểu học.
 Trong điều lệ quy định hoạt động giáo dục trong nhà trường Tiểu học 
được chia thành hai bộ phận: hoạt động giáo dục trên lớp và hoạt động giáo 
dục ngoài giờ lên lớp. Mỗi bộ phận trên đều có chức năng là thực hiện mục 
tiêu giáo dục.
 1.3 Nhiệm vụ năm học của các trường Tiểu học
 Sở giáo dục và đào tạo Hà Nội có hướng dẫn: Mục tiêu giáo dục Tiểu học 
được thực hiện thông qua việc tổ chức các hoạt động dạy học trong trường Tiểu 
học. Hoạt động dạy học được thực hiện với hình thức lên lớp là hoạt động đặc 
trưng, là hoạt động chủ yếu của nhà trường. Việc tổ chức các hoạt động tập thể 
cho học sinh Tiểu học là rất cần thiết, nhằm hỗ trợ và bổ sung cho hoạt động dạy 
học chính khoá nhằm thay đổi không khí học tập, tạo nên hứng thú tích cực cho 
các con.
 2. Cơ sở lí luận của đề tài
 Đối với học sinh Tiểu học, tình cảm, sự gần gũi, thân thiện của cô giáo có 
vị trí đặc biệt vì nó là khâu trọng yếu gắn liền với sự nhận thức của trẻ. Sự thân 
thiện ấy không chỉ kích thích trẻ nhận thức mà còn thúc đẩy trẻ hoạt động, khám 
phá, tự vươn lên trong học tập.
 Học sinh lớp Một lần đầu tiên đến lớp nên rất e ngại khi tiếp xúc với cô, 
với bạn mới. Có con còn khóc lóc, bám chặt lấy bố mẹ không chịu vào lớp. Có 
con lại nhất định đòi bố mẹ phải vào ngồi cùng trong lớp. Đây cũng là lúc giáo 
viên cần khéo léo tạo sự an tâm, tin tưởng cho các con để các con có thể tự tin 
vào ngồi trong lớp học mà không còn lo sợ nữa. Sự gần gũi, ân cần, sự quan tâm 
nhẹ nhàng, sự cởi mở chân tình của cô giáo ngay từ lần đầu tiên đến lớp sẽ tạo 
nên những xúc cảm mạnh mẽ và để lại ấn tượng sâu sắc trong tâm hồn trẻ thơ 
của các con. Như vậy xây dựng mối quan hệ gần gũi, thân thiện giữa cô và trò 
 3/29 - Tham khảo ý kiến của Ban giám hiệu về kế hoạch xây dựng công tác 
chủ nhiệm lớp cho giáo viên;
 - Trao đổi, trò chuyện với học sinh và cha mẹ học sinh về mối quan hệ 
gần gũi giữa giáo viên và học sinh, thu thập thêm những thông tin cần thiết để 
xây dựng đề tài.
 3. KẾT QUẢ KHẢO SÁT HỌC TẬP CỦA HỌC SINH ĐẦU NĂM 
HỌC 2018 - 2019:
 Kiến thức – Kĩ năng Năng lực Phẩm chất
 HTT HT CHT Tốt Đạt CCG Tốt Đạt CCG
 13HS 38HS 3HS 39HS 14HS 1HS 39HS 14HS 1HS
 Việc nghiên cứu để xác định rõ thực trạng và tìm hiểu kĩ về biện pháp xây 
dựng mối quan hệ gần gũi, thân thiện giữa giáo viên và học sinh chính là cơ sở 
để tôi suy nghĩ, mạnh dạn cải tiến và tìm ra các biện pháp xây dựng mối quan hệ 
gần gũi, thân thiện giữa cô và trò để kích thích học sinh hăng say học tập đồng 
thời góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả của hoạt động dạy học.
III. CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN
 Như chúng ta đã biết học sinh lớp Một khi đến trường các con còn nhiều 
bỡ ngỡ, lần đầu tiên được làm quen với nội quy trường lớp, với những môn học 
và biết bao hoạt động khác mà ở trường Mầm non các con chưa từng được trải 
qua. Vậy phải làm thế nào để giúp trẻ tập trung học tập, có ý thức rèn luyện để 
trở thành con ngoan, trò giỏi. Người dìu dắt, giúp đỡ các con vượt qua những bỡ 
ngỡ này, đó chính là cô giáo chủ nhiệm. Sau đây là những giải pháp tôi đã làm 
để xây dựng mối quan hệ gần gũi, thân thiện giữa cô và trò để kích thích học 
sinh hăng say học tập.
 1. TẠO ẤN TƯỢNG TỐT ĐẸP TRONG HỌC SINH NGAY TỪ BUỔI 
ĐẦU TIÊN GẶP MẶT
 Như chúng ta đã biết, trước khi vào năm học mới bao giờ giáo viên nói 
chung và giáo viên lớp Một nói riêng cũng có một buổi nhận lớp, làm quen với 
học sinh. Đây là lúc thích hợp nhất để tôi thể hiện sự thân thiện của mình với 
học trò ngay từ buổi gặp mặt đầu tiên. Ngày hôm đó các con thường được cha 
mẹ hoặc ông bà đưa đến lớp. Các con rất hào hứng cho buổi đầu tiên đến trường 
này. Nhưng khi đến lớp gặp bạn mới, cô giáo mới thì các con lại rất e ngại và 
không dám vào lớp một mình. Có con còn bám chặt lấy mẹ hay là bất ngờ khóc 
rất to và kiên quyết đòi về nhà không chịu vào lớp. Là một giáo viên chủ nhiệm 
 5/29 
 Học sinh chơi Bắt vịt
Lễ trao phần thưởng cho học sinh tiêu biểu
 7/29 điểm chính, điểm quan trọng của bài học, tránh cho học sinh ghi nhớ máy móc 
hay chỉ là học vẹt.
 Trong khi dạy kiến thức mới tôi luôn luôn động viên khích lệ học sinh tự 
quan sát, nhận xét và tư duy để tìm ra kiến thức mới. Với câu hỏi tìm hiểu bài 
mà cô đưa ra cho học sinh trả lời tôi luôn động viên học sinh: “Các con hãy 
mạnh dạn lên nhé!”. Rồi hỏi học sinh ở dưới lớp: “Bạn nào muốn có câu trả 
lời?”. Khi có học sinh nào đó trả lời đúng nhưng chưa đủ ý của câu hỏi thì tôi vỗ 
về các con bằng câu nói: “Con trả lời tốt lắm, có ai muốn bổ sung gì cho bạn 
không nhỉ?”. Còn nếu học sinh trả lời đúng, trọn ý của của câu hỏi thì tôi lập tức 
khen luôn: “Đó là một câu trả lời xuất sắc, chúng mình cùng khen bạn nào.” Cứ 
như vậy học sinh sẽ mạnh dạn giơ tay phát biểu ý kiến xây dựng bài, lớp học rất 
sôi nổi và các con tiếp thu bài một cách nhẹ nhàng, thoải mái. 
 Khi gọi học sinh đọc bài cũng vậy, tôi luôn luôn yêu cầu các con đọc bài 
to, rõ ràng. Cứ như thế tôi luôn vỗ về học sinh bằng những câu động viên, khích 
lệ rằng con cứ yên tâm, những âm nào, tiếng nào, từ nào không nhớ, đọc sai thì 
cô sẽ giúp con sửa sai, con đừng sợ. Vì vậy, dần dần đã tạo cho học sinh thói 
quen mạnh dạn, tự tin và đã đọc to, lưu loát ngay từ tiết học đầu tiên. Tuy nhiên 
trong khi học sinh thực hành làm bài tập không thể tránh khỏi sai sót. Tuỳ vào 
từng trường hợp sai của học sinh mà cô có hướng giải quyết khác nhau từ đó tạo 
cho học sinh tâm lí thật thoải mái tự tin khi học bài.
 Ví dụ 1: Chẳng hạn trong phần Học vần của môn Tiếng Việt, học sinh 
được học âm “b” từ bài 2. Lúc này các con đã biết đọc, viết, nhớ tên âm và tên 
chữ cái của nó. Đến bài 14 các con lại được học âm mới là “d, đ”. Khi đó rất 
nhiều con lúng túng không phân biệt được đâu là “b” và đâu là “d”. 
 Hay ở bài 3 con được học dấu thanh sắc “/” và ở bài 5 con được học dấu 
thanh huyền “ \”, đến đây nhiều học sinh lại nhầm lần hai dấu này với nhau.
 Còn ở bài 22 các con được học âm mới là “p, ph, nh”, đến bài 24 các con 
lại được tiếp âm mới là “q, qu, gi” , lúc này các con lại lúng túng khi không 
phân biệt được đâu là “q” đâu là “p”. Trước tình trạng đó tôi đã:
 a. Tìm hiểu nguyên nhân.
 Nguyên nhân của tình trạng học sinh có sự nhầm lẫn giữa chữ “p” với chữ 
“q”; chữ “d” với chữ “b”; nhầm dấu thanh “ /” với dấu thanh “ \”  là do tri 
giác của học sinh lớp một mang tính chất đại thể, ít đi sâu vào chi tiết và mang 
tính không chủ động, do đó các con phân biệt những đối tượng này chưa chính 
xác, lúc nhớ, lúc quên.
 b. Cách giải quyết
 Trong từng tiết học cô giáo luôn tạo cho học sinh những định hướng mốc 
tri giác. Chẳng hạn giúp học sinh phân biệt đâu là tay phải, đâu là tay trái, sau đó 
 9/29 vào bảng trước. Đến lúc viết vào vở, tôi nhắc học sinh nhẩm đọc lại từ và tự nhớ 
lại quy tắc chính tả trước khi viết. 
 Trong quá trình dạy học sinh tôi hình thành cho các con thói quen sau khi 
viết xong một chữ là con sẽ nhẩm lại xem mình viết đúng chưa, có đủ dấu thanh 
chưa, nếu thiếu thì phải bổ sung ngay lập tức. Như vậy các con sẽ ít sai lỗi chính 
tả hơn. Một việc làm rất quan trọng giúp học sinh phát hiện ra lỗi sai của mình là 
tôi cho các con đổi chéo vở để tự kiểm tra bài của nhau.
 Trong môn Toán cũng vậy, ngoài việc hình thành cho các con kĩ năng tự 
kiểm tra bài của mình, tôi cũng tổ chức cho đổi chéo kiểm tra như môn Tiếng 
Việt. Việc làm đó cũng giúp học sinh dễ dàng phát hiện và sửa lỗi sai của bản 
thân. Cũng có thể giúp học sinh sửa sai bằng cách cô chỉ vào phép tính sai, bài 
toán sai và nhắc nhẹ nhàng “Con kiểm tra lại phép tính này đi!”. Khi đó học sinh 
sẽ tự tính toán lại và nhận ra ngay sai sót của mình. Cần lưu ý là thấy học sinh 
làm bài sai tránh quát mắng ầm ĩ làm cho các con hoảng sợ sẽ mất tập trung và 
không thể học được. Khi học sinh làm sai, tôi thường chỉ cho các con thấy mình 
sai ở đâu và sửa sai như thế nào. Từ đó, học sinh vừa yên tâm vì khi làm sai 
không bị cô mắng lại còn biết cách sửa sai kịp thời. Vì vậy các con hoàn toàn tự 
tin trong học tập và thế là tôi đã thành công trong việc dạy dỗ và giáo dục học 
sinh của mình.
 Với thái độ ân cần nhẹ nhàng của cô, học sinh sẽ cảm thấy rất thoải mái, 
tự tin trong học tập, không phải lo ngại mình làm sai sẽ bị cô giáo mắng phạt gì 
cả. Không chỉ trong môn Toán và Tiếng Việt mà trong những môn học khác tôi 
cũng từng bước giảm bớt áp lực trong học tập bằng cách đưa vào cuối mỗi tiết 
học các trò chơi nhằm củng cố, khắc sâu kiến thức đã học cho học sinh. Chẳng 
hạn như trong môn Tự nhiên và Xã hội, sau khi học bài cây hoa, tôi cho học sinh 
tham gia vào trò chơi đoán tên các loài hoa như sau:
 - Đưa một số câu thơ nói về loài hoa và yêu cầu học sinh nói tên hoa:
 Câu thơ
 Hoa gì ngủ hết đông tàn
 Xuân về hớn hở nhuộm vàng trời Nam?
 Hoa Mai
 11/29

File đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_xay_dung_moi_quan_he.docx