Sáng kiến kinh nghiệm Một số phương pháp giáo dục dành cho học sinh cá biệt Lớp 1
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số phương pháp giáo dục dành cho học sinh cá biệt Lớp 1", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số phương pháp giáo dục dành cho học sinh cá biệt Lớp 1
1 Phụ lục I Đơn yêu cầu công nhận sáng kiến (Kèm theo Quy định về hoạt động sáng kiến trên địa bàn tỉnh Quảng Nam) CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN Kính gửi: HĐKH Phòng GD&ĐT Đại Lộc Tôi kính đề nghị Quý cơ quan xem xét, công nhận sáng kiến như sau: 1. Họ và tên tác giả: Phạm Thị Ngọc Ánh 2. Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Đại Cường 3. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến - nếu có: không 4. Tên sáng kiến: Một số phương pháp giáo dục dành cho học sinh cá biệt lớp 1 5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: - Đối với học sinh cá biệt lớp 1. 6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử : 15/10/2021 7. Hồ sơ đính kèm: Hai(02) tập Báo cáo sáng kiến. Các tài liệu, giấy tờ, hình ảnh liên quan (nêu cụ thể, nếu có). Văn bản đề nghị công nhận sáng kiến kèm Biên bản của Hội đồng sáng kiến và quyết định công nhận sáng kiến của cơ quan, đơn vị nơi tác giả đang công tác. Chúng tôi/ tôi xin cam đoan mọi thông tin nêu trong đơn là trung thực, đúng sự thật và hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật. Đại Cường, ngày . tháng 3 năm 2022 Người nộp đơn (Ký và ghi rõ họ tên) Phạm Thị Ngọc Ánh 1.Tên cơ sở được yêu cầu công nhận sáng kiến 2. Ghi tối đa 02 đồng tác giả 3. Trường hợp tác giả sáng kiến không đồng thời là chủ đầu tư tạo ra sáng kiến thì trong đơn cần nêu rõ chủ đầu tư tạo ra sáng kiến là cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân nào. Nếu sáng kiến được tạo ra do Nhà nước đầu tư kinh phí, phương tiện vật chất - kỹ thuật thì trong đơn cần ghi rõ thông tin này 4. Điện tử, viễn thông, tự động hóa, công nghệ thông tin ; Nông lâm ngư nghiệp và môi trường ; Cơ khí, xây dựng, giao thông vận tải ; Dịch vụ (ngân hàng, du lịch, giáo dục, y tế) ; Khác 5. ghi ngày nào sớm hơn 3 - Quan sát quá trình diễn ra các hoạt động trên lớp và tìm hiểu các hoạt động ở nhà của học sinh. - Nghiên cứu các tài liệu về: Phương pháp giáo dục học sinh cá biệt; tìm hiểu các bài báo mạng; Giáo dục toàn diện – Học sinh Tiểu học; Sách giáo dục nhân cách cho học sinh lễ phép, - Rút ra kết luận và những kinh nghiệm để giải quyết một số khó khăn về giáo dục học sinh cá biệt. - Các em là đối tượng học sinh cá biệt thường nằm trong gia đình có hoàn cảnh khó khăn; bố mẹ ly hôn hoặc không quan tâm đến con em. - Môi trường giáo dục và môi trường sống của các em bị ảnh hưởng không ít đến lối sống cũng như cách ứng xử của các em. - Do đặc điểm tâm sinh lý, lứa tuổi của các em học sinh tiểu học còn ham chơi, chưa thực sự chú tâm vào việc học tập, rèn luyện. Từ thực trạng trên đầu năm học tôi tiến hành khảo sát học sinh lớp tôi kết quả như sau: ST Học và tên HS Dạng học sinh cá Biểu hiện đầu năm T biệt 1 Nguyễn Quang Linh Học tập; Tính cách Em không chú ý trong giờ học, thích chọc phá bạn bè. Tình hình học tập của em vào đầu năm: em và viết còn chậm, chưa thuộc bảng chữ cái. Tính cách em bất thường. 2 Nguyễn Hoàng Tín Học tập; Tính cách Em hay nói chuyện trong giờ học. Chưa lễ phép với thầy cô giáo. Em không tập trung trong giờ học. Hay chọc phá bạn bè. Em đọc bài chậm, trình bày vở cẩu thả, không khoa học. 3 Nguyễn Đức Tiến Tính cách Em không tập trung trong giờ học. Hay nói chuyện riêng. Đánh nhau với bạn vào giờ ra chơi. Hay nói dối và gây gỗ với các bạn trong lớp. 5 2 Nguyễn Hoàng Tín Em là con trai út trong gia đình. Từ nhỏ đã ương bướng nhiều giáo viên và phụ huynh đã phản ảnh về em. Hay chọc phá bạn bè, đánh bạn. 3 Nguyễn Đức Tiến Gia đình em khá giả, tuy nhiên bố mẹ nuông chiều em. Nên vô tình tạo cho em thói hư tật xấu; có thói quen ỷ lại. * Về phía nhà trường: Trong quá trình giáo dục thì không phải giáo viên nào cũng có phương pháp giáo dục phù hợp để giáo dục học sinh cá biệt. * Về phía xã hội: Ngày nay tình trạng sách báo, game, phim ảnh tràn lan. Thu hút các em. Khiến các em mải mê điện thoại và bỏ bê việc học tập. Và trong những nguyên nhân trên thì nguyên nhân chủ yếu của học sinh cá biệt trong lớp là do hoàn cảnh gia đình. Khi chúng ta tìm được nguyên nhân thì vấn đề tiếp theo là tìm những biện pháp nào để giúp đỡ các em. Dưới đây là những biện pháp tôi đã thực hiện trong quá trình nghiên cứu ở lớp 1C. Do đó các em học sinh này thường sẽ gặp những khó khăn về tâm lý; giao tiếp- ứng xử; những khó khăn này có thể xuất hiện trong qua trình học tập. Các em có thể học kém, không theo được trình độ học tập của cả lớp; không xác định được động cơ cũng như mục tiêu học tập; không có phương pháp cũng như hướng học tập đúng; không tuân thủ những nội quy trong hoạt động học tập. Chính vì thế người giáo viên cần xác định được những học sinh đó gặp khó khăn tâm lý ở mức độ nào để kịp thời điều chỉnh. Chính vì thể bản thân tôi đã nghiên cứu những phương pháp sau để giáo dục các em học sinh cá biệt: 1.1.2.Phương pháp 1: Có niềm tin vào nhân cách của người học: Bản thân không thể mong học sinh bạn thay đổi nếu như bạn không có niềm tin vào sự thay đổi của học sinh: Chúng ta đã từng biết đến nhà giáo dục Anton Makarenko là một trong số những nhà giáo dục mà có những tư tưởng, những điểm lý luận mà đến hiện nay chúng ta vẫn còn vận dụng. Có một điều rất tuyệt vời là: những điều mà Makarenko nói những điều mà các nhà giáo dục đã đúc rút ra và viết vào trong những sách lý luận giáo dục đó rằng phải có niềm tin vào nhân cách của người học thì đã được chứng minh bằng con đường thực nghiệm bằng con đường tâm lý học. Tôi xin chỉ ra một nghiên cứu đó là: Người ta đã tiến hành nghiên cứu trên 20 chú chuột. Người ta tách 10 con chuột đầu tiên ra và giao cho một người huấn luyện chuột. Với người huấn luyện chuột thứ nhất, người ta nói với người huấn luyện rằng hôm nay tôi giao cho anh những con chuột thông minh nhất đàn.Mười con chuột này đã trải qua các kỳ kiểm tra về kỹ năng cho nên đây là những con chuột tuyệt vời nhất và tôi muốn anh sẽ dùng những kỹ năng huấn luyện tốt của mình để huấn luyện những 7 * Chỉ nói lời tích cực: Có vẻ như phương pháp này đang đi ngược lại với nhiều giáo viên thường làm đối với những em học sinh cá biệt. Các nhà tâm lý học đã chứng minh rằng: Nếu một người giáo viên sử dụng 1 câu nói tiêu cực với học sinh của mình thì người giáo viên đó cần phải sử dụng 14 câu nói tích cực mới có thể mang tâm trạng của học sinh về trạng thái ban đầu. Nghĩa là không yêu không ghét giáo viên. Khi người lớn chúng ta phạm một lỗi lầm nào đó thì dĩ nhiên chúng ta cũng không thích nghe người khác chỉ trích. Tất nhiên đối với học sinh cũng thế. Khi thầy cô chỉ ra lỗi sai thì học sinh cũng không muốn nghe điều đó và cũng không muốn sửa đổi. Mà lúc này học sinh nghĩ rằng giáo viên đang có ác cảm với mình. Chính vì thế trong giáo dục, các nhà giáo dục đã khuyên người giáo viên rằng. Chúng ta không nên sử dụng những câu nói tiêu cực để nói với học sinh của mình. *Hãy tìm ra ưu điểm cho dù là nhỏ nhất của học sinh cá biệt: Có thể nói rằng có những em học sinh cá biệt mà ở đó tồn tại nhiều điểm xấu. Ở nhà không chịu làm bài tập; đến lớp thường xuyên vi phạm nội quy của nhà trường; không nghiêm túc, nói chuyện riêng trong giờ học; thường xuyên đánh bạn; không chịu hợp tác với bạn; thậm chí là quậy phá và chống đối với giáo viên.Việc nhìn thấy những điểm xấu ở những học sinh cá biệt này là một điều hết sức dễ dàng. Chúng ta chỉ có thể thay đổi được học sinh cá biệt đó nếu chúng ta tìm được một ưu điểm cho dù là nhỏ nhất. Trong bài kiểm tra có 20 câu hỏi chúng ta không chỉ nhằm vào những câu sai mà phải tìm ra ưu điểm của các em vào những câu đúng sẽ làm thay đổi học sinh của chúng ta. Vì vậy là một người giáo viên tiếp xúc với các em hằng ngày chúng ta hãy chịu khó kiên nhẫn, lắng nghe các em. Biết đâu chúng ta có thể tìm ra những ưu điểm mà thậm chí không phải là ưu điểm nhỏ mà là ưu điểm lớn ở những học sinh cá biệt. Ví dụ như em: Nguyễn Đức Tiến mặc dù em ngồi trong lớp học rất hay làm việc riêng và hay chọc phá bạn bè, tuy nhiên em lại nói chuyện rất dễ thương. Giờ học em cũng hay giơ tay phát biểu, tiến bộ trong học tập. Hiện nay em đã đọc viết rất tốt và làm toán nhanh hơn so với đầu năm. * Cảnh báo và trao cơ hội lựa chọn cho học sinh khi có hành vi tiêu cực xảy ra: Lần đầu tiên khi một hành vi tiêu cực xảy ra trong lớp học. Người giáo viên cần có sự cảnh báo để nói với học sinh rằng hành vi đó là không được chấp nhận trong giờ học. Dấu hiệu cảnh báo ở đây có thể là: một ánh mắt của người giáo viên không hài lòng với hành động đó; cũng có thể là chúng ta sẽ dưng lại trong một vài phút hướng ánh mắt của mình về phía học sinh đang có hành vi tiêu cực; Chúng ta có thể tiến lại gần chỗ ngồi của học sinh gõ nhẹ vào bàn để cảnh báo. Sau nhiều lần cảnh báo mà học sinh vẫn tiếp tục vi phạm thì trước khi đưa ra một hình phạt nặng hơn thì người giáo viên cần trao cho học sinh một lựa chọn nữa. 9 Bản thân mỗi giáo viên chúng ta trong lớp học đôi lúc cũng sẽ gặp những trường hợp khiến chúng ta bực mình. Vì thế chúng ta sẽ nhắc nhở học sinh hoặc có thể phạt các em. Thế nhưng những hình phạt lúc nóng giận sẽ khiến các em có chiều hướng chống đối hơn; các em sẽ thực hiện những hành động đó một cách chống đối hơn. Thay vì thế thì khi gặp những tình huống khiến chúng ta bực mình hay nóng giận, thì trước tiên chúng ta cần kiềm chế bản thân. Thay vì lời la mắng với học sinh thì chúng ta có thể khuyên nhủ và động viên các em thực hiện hoạt động học tập nghiệm túc hơn. Đối tượng của tôi ở đây là học sinh lớp 1. Vì các em vừa bước từ môi trường mẫu giáo lên nên các em còn chưa ý thức được sự quan trọng của việc học tập. Đối với những em học sinh cá biệt cũng thế. Các em cũng chưa ý thức được rằng khi ngồi trong lớp học thì cá em phải nghiêm túc và nghe giáo viên giảng bài. Vì thế ngôi trường Tiểu học không những là nơi dạy cho các em kiến thức mà còn phải dạy cho các em cách cư xử, cách sống và lề lối học tập ngay từ lúc ban đầu. 1.1.6. Phương pháp 5: Phối hợp với gia đình, nhà trường và xã hội: * Đối với nhà trường: Giáo viên chủ nhiệm không những quan sát các em trong những giờ dạy mà còn phải phối hợp với Tổng phụ trách với các giáo viên bộ môn để tìm hiều quá trình học tập ở các môn học khác cũng như cách ứng xử khi các em tham gia hoạt động ngoại khóa. Thông qua đó giáo viên có thể dễ dàng tìm cách giáo dục học sinh. * Đối với gia đình: Phối hợp tốt với gia đình. Thường xuyên thông tin hai chiều về tình hình và thái độ học tập của các em ở trên lớp. Đồng thời chúng ta nhận lại những phản hồi từ phía gia đình của các em. Nhiều phụ huynh con em mình đi học nhưng không dám đi họp phụ huynh. Những phụ huynh đó rất ngại vì sợ lên lớp các thầy cô sẽ phê bình con em mình trước lớp. Thế nên khi tiếp xúc với phụ huynh có con là học sinh cá biệt chúng ta cần mềm dẻo, khéo léo. Đặt mình vào vị trí của những phụ huynh có con là học sinh cá biệt. *Ví dụ: Khi trao đổi với phụ huynh về tình hình học tập của em Hoàng Tín trên lớp. Thì phụ huynh đó đã rời nhóm zalo của lớp. Tôi có liên lạc nhưng phụ huynh cố tình không nghe máy. Vài ngày sau tôi đã gặp và trao đổi trực tiếp với phụ huynh. Lúc này tôi mới hiểu là phụ huynh ngại giáo viên thông báo con mình học kém và nghịch ngợm. Cho nên tôi đã giải thích với phụ huynh rằng việc học của các em thì cô giáo sẽ trao đổi với cá nhân phụ huynh. Để phụ huynh không còn thấy xấu hổ. Đến hôm nay thì phụ huynh đó đã chủ động liên lạc với tôi để thông báo tình hình ở nhà của em Hoàng Tín. Nhận được thông tin từ phụ huynh thì tôi có thể nắm được tình hình của em rõ hơn. Qua đó dễ dàng đưa ra những biện pháp cụ thể để giáo dục đối với em.
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_phuong_phap_giao_duc_danh_cho_h.doc