Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp dạy môn Tiếng Việt cho học sinh yếu Lớp 1
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp dạy môn Tiếng Việt cho học sinh yếu Lớp 1", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp dạy môn Tiếng Việt cho học sinh yếu Lớp 1
Phòng giáo dục đào tạo Nghĩa Hưng Trường Tiểu học Nghĩa Hồng -----------&&&----------- BÁO CÁO SÁNG KIẾN Một số biện pháp dạy môn Tiếng Việt cho học sinh yếu lớp 1 Tác giả: Lưu Thị Hà Trình độ chuyên môn: Đại học Chức vụ: Giáo viên Nơi công tác: Trường Tiểu học Nghĩa Hồng Nam Định, ngày 17 tháng 5 năm 2021 1 BÁO CÁO SÁNG KIẾN I. ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN - Trong trường tiểu học, mục tiêu của môn Tiếng Việt lớp 1 là nhằm hình thành và phát triển ở học sinh kĩ năng sử dụng Tiếng Việt (như: nghe, nói, đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong các môi trường, phù hợp với từng hoạt động theo lứa tuổi. Qua đó cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về Tiếng Việt, đồng thời bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt, hình thành những thói quen giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt, hình thành nhân cách của học sinh tiểu học lớp đầu cấp. - Để học tốt môn Tiếng Việt, trước hết học sinh ngay từ lớp 1 phải học tốt các vần Cụ thể học sinh phải nắm chắc về âm, vần, thanh, viết đúng, đẹp, phát âm rõ ràng, chính xác, phân biệt rõ cách đọc, cách viết thì mới đạt hiệu quả tốt ở môn Tiếng Việt. - Vì vậy, khi dạy vần không những thực hiện nhiệm vụ dạy học chữ mà học vần chỉ là mới sơ bộ nhằm giúp học sinh sử dụng bộ mã chữ âm. Hết lớp 1, học sinh phải đọc trơn tiếng, âm tiết, từ ngữ, câu, đoạn. Việc đọc trơn các từ ngữ, câu, đoạn chỉ ở mức độ đơn giản việc thông hiểu văn bản chỉ ở mức độ thấp. Những yêu cầu của môn học vần đặt ra chỉ hoàn thiện về đọc, viết với tư cách là một phân môn của Tập đọc, làm nền tảng cho học sinh tiếp tục nâng lên ở các lớp trên. - Để đạt được mục tiêu như mong muốn, trước hết khi hoàn thành xong chương trình lớp 1, học sinh phải đọc thông, viết thạo. Vì đọc và viết là mục tiêu cơ bản hàng đầu của mỗi học sinh. Nếu không biết đọc, biết viết học sinh không thể thực hiện các hoạt động của mình trên lớp, dẫn đến khả năng học tập của các em sẽ yếu dần. - Thực tế hiện nay ở các lớp 1, việc dạy học của giáo viên bên cạnh những thành công vẫn còn rất nhiều hạn chế; rải rác ở các lớp 1, lớp nào cũng có học sinh yếu về môn Học vần, chữ viết xấu, kết quả đọc của học sinh chưa đáp ứng 3 I. MÔ TẢ GIẢI PHÁP 1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến Do ảnh hưởng của dịch Covid nên học sinh đầu vào lớp 1 nhiều em không nhận biết được bảng chữ cái. Đã thế lại có gần chục em trong tình trạng nhận thức yếu nên tôi rất trăn trở. Tôi đã tìm hiểu nguyên nhân và có nhiều khả năng dẫn đến học sinh lớp 1 yếu môn Tiếng Việt: - Do khả năng tiếp thu của học sinh. - Do học sinh không được gia đình quan tâm chỉ bảo, không ôn luyện bài cũ, chưa chuẩn bị bài mới trước khi đến lớp. - Do một số phụ huynh chưa quen nội dung chương trình mới nên phát âm còn nhầm lẫn khi hướng dẫn cho các em. - Học sinh không đươc rèn luyện kỹ ở lớp. - Học sinh khuyết tật hoà nhập. - Do học sinh đã tùng bị tai nạn giao thông. 2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến: Từ những nguyên nhân trên, tôi đã tiến hành một số biện pháp giảng dạy ngay trên lớp của mình. Qua thời gian 1 năm thực hiện chương trình SGK lớp 1 mới, bằng nhiều nôi dung phuơng pháp dạy học phong phú, kết hợp với một số kinh nghiệm nhiều năm giảng dạy lớp 1 đã mang lại cho tôi hiệu quả cao trên lớp mình. Tuy vậy không phải học sinh nào cũng tiếp thu bài tốt, có kết quả tốt cuối năm như mong muốn, do đó biện pháp để khắc phục học sinh yếu kém môn Tiếng Việt được thực hiện như sau: 2. 1. Về phần đọc: 2.1.1. Điều tra nắm chắc các đối tượng học sinh trong lớp - Ngay từ đầu năm, tôi điều tra lý lịch trích ngang trong sổ chủ nhiệm. GVCN phải lập riêng một sổ theo dõi về tình hình học tập hàng tuần của học sinh. - Giữa kì I tôi đã nắm được danh sách học sinh của lớp yếu môn Tiếng Việt (không nắm được âm, vần, mau quên, viết yếu) ghi vào sổ theo dõi (mỗi em 5 Về học sinh khá giỏi, học xong âm mới, học sinh sẽ tự nhẩm đánh vần, ghép tiếng, tạo ra tiếng nói dễ dàng mà không cần đến sự trợ giúp của giáo viên, lúc này giáo viên chỉ hướng dẫn, quan sát, sửa sai cho học sinh - Thuận lợi: Học sinh yếu nắm được âm đã học, biết đọc, phân tích tiếng dẫn đến đánh vần thành thạo bài đọc, khó có thể quên âm đã học, học vần, tốc độ đọc trơn môn Học vần có tiến bộ rất nhiều. Ví dụ: Hôm nay học vần (ia). Học sinh tự ghép phụ âm với vần ở bảng ghép (ĐDTV L1) để tạo ra tiếng mới rất dễ dàng (như: mía, lìa, chia, vỉa, bìa, nghĩa) - Về nhà học sinh tự ghép đánh vần để đọc, khắc phục dần dần điểm yếu của môn này, nhanh chóng nắm được bài học về cả đọc lẫn viết, học sinh yếu tiến bộ dần lên b. Cách 2: Làm cho học sinh mau nhớ, khó quên - Tận dụng triệt để mô hình vật thật để dạy cho học sinh khắc sâu về âm và vần. Ví dụ: * Về âm: + Âm a: (dùng vật thật: chiếc lá, cái ca, quả na) + Âm c: (con cá, quả cà) + Âm ê: (cái ghế, bé ghi vở, dùng thao tác ghi) * Về vần: + an: (nhà sàn, bàn ghế) + ia: (cái đĩa, chia quàbằng động tác chia) + ai: (cái tai) + ay: (cái tay) - Sử dụng 100% đồ dùng dạy học trong bộ chữ học vần để giảng dạy hàng ngày nhưng phải thay đổi hình thức khác nhau như: Tạo tiếng mới, tạo ra vần mới, ghép từ mới lặp đi, lặp lại. - Cho học sinh trong tổ, nhóm thi đua đọc tiếp sức tiếng mang vần giữa các tổ, nhóm. 2.1.3 Học sinh lười, không học bài cũ, học sinh khuyết tật hoà nhập: 7 * Luyện nói câu hỏi * Luyện nói câu trả lời * Luyện nói câu đối thoại (nhóm đôi, nhóm lớn, nhóm nhỏ, phân vai, xử lý tình huống ở các môn học khác) - Ngoài ra trong những buổi lên lớp bằng công tác chủ nhiệm, GVCN phải tập cho học sinh có nề nếp tốt như: tự truy bài, kiểm tra lẫn nhau về đọc, kiểm tra việc hoàn thành bài tập giao về nhàtrước khi cô giáo kiểm tra. - Những học sinh giỏi, khá phân ngồi xen kẽ (mỗi học sinh giỏi hoặc khá ngồi cùng bàn với 1 học sinh yếu để có hướng giúp đỡ bạn yếu) - Hằng tuần trong giờ sinh hoạt lớp, giáo viên khen, động viên, nhận xét sự tiến bộ của học sinh yếu qua theo dõi hàng tuần. - Khen thưởng động viên sự ham muốn học tập bằng một món quà nhỏ trước lớp như 1 lá cờ, 1 cây bút chì, 1 quyển vở hoặc 1 cây bút mực, 1 hộp màu đơn giản v.v để động viên tinh thần học tập của các em. - Gặp gia đình PHHS trao đổi việc học của con em hoặc ghi phiếu nhận xét, báo cho phụ huynh về việc học của con em để có hướng khắc phục. 2. 4. Về tổ chức trò chơi: - Để tiết dạy đạt hiệu quả, đồng thời khắc sâu bài học thì phải tổ chức trò chơi sau mỗi bài học, dù lớn hay nhỏ đều phải có trong tiết học, tuy hình thức khác nhau để gây ấn tượng mới lạ, tránh mhàm chán nhưng mục đích là củng cố kiến thức bài mới. - Phải tạo được khí thế thi đua trong tổ chức trò chơi. Hình thức tổ chức tổ/tổ - nhóm/nhóm – HS/HS - Nắm rõ tính chất học tập và mục đích thì phải tổ chức bằng nhiều hình thức nhưng không đơn điệu tránh lặp đi, lặp lại. Ví dụ: Bài 1: Tổ chúc thi đua tìm tiếng, từ mới. Bài 2: Tổ chức sử dụng bảng cài thi đua giữa các nhóm. Bài 3: Thi đọc tiếp sức. Bài 4: Tìm bạn cùng vần. Bài 5: Đặt câu có chứa tiếng mới v.v 9 - Ngoài những biện pháp trên, trong mỗi giờ dạy luyện tập tôi thường khuyên nhủ, hướng dẫn học sinh ôn bài, tự tìm từ mới từ dễ đến khó, luyện viết thường xuyên như: luyện chính tả, bổ sung luật chính tảbằng nhiều loại hình bài tập trong lớp như điền vần, tiếng, tìm từ mới. - Nắm chắc tình hình lớp, lựa chọn nội dung, phương pháp giảng dạy nên tôi đã khắc phục được học sinh yếu kém môn học này, bước đầu thành công khi dạy lớp 1. 11 - Riêng chỉ có 1 học sinh hòa nhập vì không nhìn rõ nên em không thể viết được chữ. * Về đạo đức: - Nhờ luyện nói, học sinh cả lớp đã biết dùng lời hay ý đẹp để giao tiếp với người lớn. Học sinh yếu mạnh dạn hơn trong phát biểu, đọc bài to, rõ, lễ phép hơn trước (thông qua các từ mới như: Đối với người lớn phải dùng từ kính trọng; đối với anh chị phải dùng từ thân ái). Không còn học sinh nói tục và học tiến bộ hẳn. - Lớp có nề nếp học tập tốt, mới lạ nhưng đã thành thói quen tự truy bài. Vào đầu giờ mỗi ngày trước khi vào lớp, đội tự quản điều khiển cả lớp cho ôn lại các vần đã học và đọc lại các bài đã học. Nhờ vậy học sinh yếu đã kịp dần học sinh khá, có những em học yếu về học tập nay đã được nâng lên học được khá, giỏi. - Lớp luôn xếp thứ nhất vào mỗi buổi sinh hoạt dưới cờ. - Bảng so sánh chất lượng. Điêmt 9 - 10 Điêmt 7 - 8 Điêmt 5 - 6 Điểm dưới 5 SL TL SL TL SL TL SL TL Cuối kì I 9 23,7% 16 42,1% 6 15,8% 7 18,4% Cuối năm 23 60,5% 13 34,2% 0 2 5,3% IV. CAM KẾT KHÔNG VI PHẠM BẢN QUYỀN Tôi cam đoan sáng kiến này không sao chép của ai. TÁC GIẢ SÁNG KIẾN 13
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_day_mon_tieng_viet_ch.doc