Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp dạy viết câu sáng tạo cho học sinh Lớp 1

doc 12 trang sklop1 19/10/2023 3262
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp dạy viết câu sáng tạo cho học sinh Lớp 1", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp dạy viết câu sáng tạo cho học sinh Lớp 1

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp dạy viết câu sáng tạo cho học sinh Lớp 1
 Một số biện pháp dạy viết câu sáng tạo cho học sinh lớp 1 
 _____________________________________________________________________
 A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
 Từ lâu, song hành với quá trình phát triển, đi lên của đất nước, Đảng, Nhà 
nước, Chính phủ Việt Nam luôn quan tâm, xác định rõ tầm quan trọng của việc 
GD&ĐT. Theo đó, với quan điểm không có sự đầu tư nào mang lại nhiều lợi ích 
như đầu tư cho GD&ĐT, bởi đây là lĩnh vực, nền tảng góp phần hình thành, tạo 
nên nhân cách chuẩn mực cho mỗi công dân, đào tạo nên những người lao động 
có trình độ nghề, năng động, sáng tạo, là tiền đề cho sự phát triển kinh tế, xã hội 
của đất nước.
 Ngày nay, trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, Đảng, 
Nhà nước, Chính phủ Việt Nam còn xác định GD&ĐT như một lợi thế, nhân tố, 
chìa khóa, động lực mới cho việc thúc đẩy nền kinh tế - xã hội phát triển. Đánh 
giá về tầm quan trọng không thể thiếu này, Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 
4/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI xác định: Giáo dục con 
người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng 
sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt 
và làm việc hiệu quả; xây dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp, dạy tốt, 
học tốt, quản lý tốt; có cơ cấu và phương thức giáo dục hợp lý, gắn với xây dựng 
xã hội học tập; bảo đảm các điều kiện nâng cao chất lượng; chuẩn hóa, hiện đại 
hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế hệ thống giáo dục và đào tạo; 
giữ vững định hướng XHCN và bản sắc dân tộc. Phấn đấu đến năm 2030, nền 
giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực.
 Giáo dục tiểu học là bậc học nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân, có 
nhiệm vụ xây dựng và phát triển tình cảm, đạo đức, trí tuệ, thẩm mỹ và thể chất 
của trẻ em, nhằm hình thành cơ sở ban đầu cho sự phát triển toàn diện nhân cách 
con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
 Tiếng Việt là một trong những môn học quan trọng và cần thiết nhất ở bậc 
tiểu học. Bên cạnh việc học toán để phát triển tư duy logic cho con, việc học 
tiếng việt sẽ giúp các con hình và phát triển tư duy ngôn ngữ. Thông qua môn 
Tiếng Việt, các con sẽ được học cách giao tiếp, truyền đạt tư tưởng, cảm xúc của 
mình một cách chính xác và biểu cảm.
 Trong khi đó, ở giai đoạn lớp 1, trẻ chỉ nhận diện được và sử dụng được 
các đơn vị của Tiếng Việt, các quy tắc sử dụng Tiếng Việt trong lúc đọc, viết, 
nghe, nói. Việc giúp trẻ đọc thông thạo và hiểu đúng ý nghĩa một văn bản ngắn; 
viết rõ ràng, đúng chính tả; nghe chủ động; nói chủ động, rành mạch đã là việc Một số biện pháp dạy viết câu sáng tạo cho học sinh lớp 1 
 _____________________________________________________________________
 B. PHẦN NỘI DUNG
 Chương I: Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiến
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN
1. Đặc điểm tâm lý và hoạt động chủ đạo của học sinh Tiểu học
 Ở mỗi giai đoạn phát triển tâm lí có một hoạt động giữ một vị trí quan trọng, 
có ý nghĩa quyết định hình thành nên cái mới trong cấu trúc nhân cách của lứa 
tuổi tương ứng, người ta gọi là hoạt động chủ đạo. Khi còn ở lứa tuổi mẫu giáo, 
hoạt động chủ đạo của các em là vui chơi. Còn ở lứa tuổi Tiểu học, hoạt động 
chủ đạo của các em là học tập. Trẻ em cắp sách tới trường, hoạt động học tập 
làm cho các em có sự thay đổi cơ bản về những hành vi và mở ra cho các em 
những nguồn phát triển mới của sức mạnh nhận thức và đạo đức. Được chuẩn bị 
chu đáo về mặt tâm lý, trẻ em sẽ đến trường với niềm vui mới. Đến trường, các 
em bắt gặp nhiều điều mới mẻ mà ở nhà hay ở lớp mẫu giáo không có. Chúng 
đón nhận những cái mới đó một cách thích thú và do đó nhanh chóng tiếp cận 
những đòi hỏi, những yêu cầu của giáo viên. Đến trường các em không còn là 
“bé bỏng” mà là có nghĩa vụ và quyền lợi mới so với trước.
 Hoạt động học tập lần đầu tiên trong cuộc sống của trẻ mang đến cho chúng 
những tri thức mới, những kỹ năng mới. Tri thức khoa học đến với đứa trẻ với tư 
cách là một hệ thống, những khái niệm, những quy luật mới  Cũng lần đầu 
tiên trẻ tập áp dụng những tri thức vào những bài tập từ dễ đến khó, tiếp xúc với 
những tri thức khoa học và mở rộng giao tiếp ra khỏi khuôn khổ chật hẹp trước đó.
 Tuy nhiên, đến trường học, trẻ em cũng gặp những khó khăn “tâm lý” mà 
người lớn cần giúp các em khắc phục: Một là, các em phải làm quen và tuân thủ 
những nội quy của nhà trường. Khi ngồi trong lớp, các em phải giữ trật tự, 
không được làm việc riêng, không được phép nói chuyện  Những quy định 
này dễ làm trẻ mệt mỏi. Hai là, các em bước vào một quan hệ mới, quan hệ thầy 
trò, quan hệ với ban bè, đông đảo và phức tạp hơn nhiều so với tập thể trẻ ở mẫu 
giáo trước đây. Ba là, sau một giai đoạn học tập, trong đầu của trẻ em có thể 
xuất hiện sự “bão hòa” kiến thức mới.
 Trẻ em Tiểu học nhìn thế giới xung quanh bằng những hình ảnh rất cụ 
thể, các em chưa có khả năng trừu tượng, khái quát nhất là các em học sinh lớp 1 
Người giáo viên phải quan tâm đến những khó khăn nói trên của học sinh để 
động viên khuyến khích và tổ chức các em đi vào hoạt động học tập sao cho 
luôn luôn duy trì ở chúng hứng thú học tập, niềm hy vọng ở học tập, ý thức 
vươn lên đạt những yêu cầu cao hơn nữa trong học tập.
2. Đặc điểm nhận thức của học sinh Tiểu học Một số biện pháp dạy viết câu sáng tạo cho học sinh lớp 1 
 _____________________________________________________________________
 Qua đây, các nhà giáo dục phải phát triển tư duy và trí tưởng tượng của 
các em bằng cách biến các kiến thức "khô khan" thành những hình ảnh có 
cảm xúc, đặt ra cho các em những câu hỏi mang tính gợi mở, thu hút các em 
vào các hoạt động nhóm, hoạt động tập thể để các em có cơ hội phát triển quá 
trình nhận thức lý tính của mình một cách toàn diện.
2.3. Ngôn ngữ và sự phát triển nhận thức của học sinh tiểu học
 Hầu hết học sinh tiểu học có ngôn ngữ nói thành thạo. Khi trẻ vào lớp 1 
bắt đầu xuất hiện ngôn ngữ viết. Đến lớp 5 thì ngôn ngữ viết đã thành thạo và 
bắt đầu hoàn thiện về mặt ngữ pháp, chính tả và ngữ âm. Nhờ có ngôn ngữ phát 
triển mà trẻ có khả năng tự đọc, tự học, tự nhận thức thế giới xung quanh và tự 
khám phá bản thân thông qua các kênh thông tin khác nhau.
 Ngôn ngữ có vai trò hết sức quan trọng đối với quá trình nhận thức cảm 
tính và lý tính của trẻ, nhờ có ngôn ngữ mà cảm giác, tri giác, tư duy, tưởng 
tượng của trẻ phát triển dễ dàng và được biểu hiện cụ thể thông qua ngôn ngữ 
nói và viết của trẻ. Mặt khác, thông qua khả năng ngôn ngữ của trẻ ta có thể 
đánh giá được sự phát triển trí tuệ của trẻ.
 Ngôn ngữ có vai trò hết sức quan trọng như vậy nên các nhà giáo dục 
phải trau dồi vốn ngôn ngữ cho trẻ trong giai đoạn này bằng cách hướng 
hứng thú của trẻ vào các loại sách báo có lời và không lời, có thể là sách văn 
học, truyện tranh, truyện cổ tích, báo nhi đồng,....đồng thời cũng có thể kể 
cho trẻ nghe hoặc tổ chức các cuộc thi kể truyện đọc thơ, viết báo, viết truyện, 
dạy trẻ cách viết nhật kí,...Tất cả đều có thể giúp trẻ có được một vốn ngôn 
ngữ phong phú và đa dạng.
2.4. Chú ý và sự phát triển nhận thức của học sinh tiểu học
 Ở đầu tuổi tiểu học chú ý có chủ định của trẻ còn yếu, khả năng kiểm 
soát, điều khiển chú ý còn hạn chế. Ở giai đoạn này chú không chủ định chiếm 
ưu thế hơn chú ý có chủ định. Trẻ lúc này chỉ quan tâm chú ý đến những môn 
học, giờ học có đồ dùng trực quan sinh động, hấp dẫn có nhiều tranh ảnh,trò 
chơi hoặc có cô giáo xinh đẹp, dịu dàng,...Sự tập trung chú ý của trẻ còn yếu và 
thiếu tính bền vững, chưa thể tập trung lâu dài và dễ bị phân tán trong quá trình 
học tập.
 Ở cuối tuổi tiểu học trẻ dần hình thành kĩ năng tổ chức, điều chỉnh chú ý 
của mình. Chú ý có chủ định phát triển dần và chiếm ưu thế, ở trẻ đã có sự nỗ 
lực về ý chí trong hoạt động học tập như học thuộc một bài thơ, một công thức 
toán hay một bài hát dài,...Trong sự chú ý của trẻ đã bắt đầu xuất hiện giới hạn Một số biện pháp dạy viết câu sáng tạo cho học sinh lớp 1 
 _____________________________________________________________________
 Nói tóm lại, sáu tuổi vào lớp 1 là bước ngoặt lớn của trẻ thơ. Môi trường 
thay đổi: đòi hỏi trẻ phải tập trung chú ý thời gian liên tục từ 30 - 35 phút. 
Chuyển từ hiếu kỳ, tò mò sang tính ham hiểu biết, hứng thú khám phá. Bước 
đầu kiềm chế dần tính hiếu động, bột phát để chuyển thành tính kỷ luật, nền nếp, 
chấp hành nội quy học tập. Phát triển độ tinh nhạy và sức bền vững của các thao 
tác tinh khéo của đôi bàn tay để tập viết,...Tất cả đều là thử thách đối với của trẻ, 
muốn trẻ vượt qua được tốt những điều này thì phải cần có sự quan tâm giúp đỡ 
của gia đình, nhà trường và xã hội dựa trên sự hiểu biết về tri thức khoa học.
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN
 Trẻ 6 tuổi vào lớp 1 là bước ngoặt lớn trong cuộc đời. Môi trường thay 
đổi: đòi hỏi trẻ phải tập trung chú ý thời gian liên tục từ 30 – 35 phút. Chuyển từ 
hiếu kỳ, tò mò sang tính ham hiểu biết, hứng thú khám phá. Ngôn ngữ có vai trò 
hết sức quan trọng đối với quá trình nhận thức cảm tính và lý tính của trẻ, nhờ 
có ngôn ngữ mà cảm giác, tri giác, tư duy, tưởng tượng của trẻ phát triển dễ 
dàng và được biểu hiện cụ thể thông qua ngôn ngữ nói và viết của trẻ. Mặt khác, 
thông qua khả năng ngôn ngữ của trẻ ta có thể đánh giá được sự phát triển trí tuệ 
của trẻ.
Trong quá trình dạy chương trình SGK mới nói chung và dạy viết câu sáng tạo 
nói riêng, tôi cũng có những thuận lợi và khó khăn nhất định:
- Thuận lợi:
+ Cở sở vật chất của nhà trường khang trang, lớp học được trang bị phương tiện 
dạy học hiện đại.
+ BGH nhà trường luôn ủng hộ, tạo điều kiện cho giáo viên.
- Khó khăn: Vốn từ và kiến thức xã hộicủa học sinh quá ít; học sinh không biết 
cách diễn đạt ý nghĩ, nhu cầu mong muốn đề đạt của mình ...
Trước thực trạng đó, tôi đã điều tra khả năng nhận thức của học sinh và thu được 
kết quả như sau:
Khả năng nhận thức Giỏi Khá Trung Yếu
 bình
 TS % TS % TS % TS %
Kiến thức sống 15 31,9 21 44,6 9 19,1 2 4,4
Vốn từ 5 7 25 10 Một số biện pháp dạy viết câu sáng tạo cho học sinh lớp 1 
 _____________________________________________________________________
 Chương II: ĐỀ XUẤT MỘT SỐ BIỆN PHÁP DẠY VIẾT CÂU SÁNG 
 TẠO CHO HỌC ĐẠI TRÀ LỚP 1
I. MỘT SỐ NGUYÊN TẮC TRONG DẠY HỌC MÔN TIẾNG VIỆT
1. Đảm bảo tính khoa học và tính vừa sức.
2. Đảm bảo tính trực quan và tính tích cực tự giác
3. Đảm bảo tính hệ thống và vững chắc
4. Đảm bảo cân đối giữa học và hành, kết hợp dạy học với ứng dụng trong 
đời sống
II. ĐỀ XUẤT MỘT SỐ BIỆN PHÁP DẠY VIẾT CÂU SÁNG TẠO CHO 
HỌC SINH ĐẠI TRÀ LỚP 1
 Từ cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn, tôi đã báo cáo cho tổ chuyên môn và 
BGH. Được sự ủng hộ của BGH, tôi mạnh dạn dạy viết câu sáng tạo cho học 
sinh lớp 1 bằng cách sử dụng các biện pháp sau:
1.Biện pháp 1: Dạy khái niệm câu
 Trước tiên, ngay từ những bài học vần đầu tiên, tôi đã giới thiệu cho học 
sinh có trong SGK. Ví dụ: A, bà. – Bài 2 B b – Sách kết nối tri thức với cuộc 
sống. Đồng thời nhấn mạnh để học sinh biết câu là khi nói hoặc viết ra thì người 
đọc và người nghe đều hiểu được. Dấu hiệu nhận biết câu: Đầu câu viết hoa, 
cuối câu có dấu chấm.
 Để làm tốt được điều này, ở giai đoạn học vần, tôi đã xây dựng hệ thống 
bài tập phát triển ngôn ngữ cho học sinh:
Dạng 1: Tìm tiếng (từ ngữ) có âm (vần ) đã học
Dạng 2: Đặt câu có âm (vần) đã học
Dạng 3: Nối từ ngữ ở cột trái với từ ngữ ở cột phải để tạo thành câu hoàn chỉnh
Dạng 4: Sắp xếp trật tự tiếng (từ ngữ) để tạo thành câu
Dạng 5: Viết tiếp để hoàn thiện câu
 2. Biện pháp 2: Khai thác và sử dụng đồ dùng trực quan triệt để
 Đối với trẻ Tiểu học nói chung và học sinh lớp 1 nói riêng, đồ dùng trực 
quan vô cùng quan trọng đối với học sinh. Bởi lẽ, với học sinh “Trăm nghe 
không bằng một thấy”. Vì vậy, cũng ngay từ những bài học vần đầu tiên, sau 
phần khởi động, bao giờ tôi cũng cho học sinh quan sát tranh hoặc xem video; 
thảo luận nhóm nội dung bức tranh hoặc video vừa xem. Khi học sinh tương tác 
trong nhóm, các em đã chia sẻ ý nghĩ của mình, các em tự chỉnh sửa cho nhau, 
các em tự học ở nhau. Do đó, vốn từ và khả năng diễn đạt của các em đã tăng 
lên đáng kể. Chưa kể đến, khi giáo viên nhận định chốt ý kết quả thảo luận và 

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_day_viet_cau_sang_tao.doc