Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp luyện đọc đúng cho học sinh Lớp 1 trong các tiết tập đọc năm học 2016 - 2017
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp luyện đọc đúng cho học sinh Lớp 1 trong các tiết tập đọc năm học 2016 - 2017", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp luyện đọc đúng cho học sinh Lớp 1 trong các tiết tập đọc năm học 2016 - 2017
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HÀ NỘI ------- -------------------- Mã SKKN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP LUYỆN ĐỌC ĐỨNG CHO HỌC SINH LỚP 1 TRONG CÁC TIẾT TẬP ĐỌC Lĩnh vực/Môn: Tiếng Việt Cấp học : Tiểu học Năm học: 2016-2017 lũy cho mình một vốn từ ngữ. Các em không những hiểu được từ mà còn học cách sử dụng các từ ngữ đã biết để viết đoạn văn và trình bày tư tưởng tình cảm của mình. Vốn đó sẽ được nâng dần và làm phong phú khi học lên các lớp trên. Tập đọc là môn học bồi dưỡng cho các em tình yêu tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa. Đọc thành âm thanh các văn bản viết: Có các mức độ: đọc thành tiếng và đọc lẩm nhẩm. Các tác giả Fridoso.M và F.Godolanh đã nêu ra sơ đồ biểu diễn quá trình vận động của các giác quan con người trong việc đọc (dựa trên lý thuyết thông tin). Như vậy quá trình đọc thành âm thanh các văn bản viết gồm hai hoạt động: hoạt động thu nhận thông tin dựa trên cơ sở tri giác bằng mắt, bằng tai các văn bản đang đọc (miệng đọc, mắt nhìn, tai nghe). Hoạt động phát lại các thông tin thu nhận được bằng âm thanh ngôn ngữ dựa trên cơ sở sự hoạt động của một quá] Vấn đề dặt ra là làm thế nào để giúp các em đọc đúng tiếng trong từ, trong câu, đọc đúng ngữ điệu, biết cách ngắt nghỉ hơi trong thơ và văn xuôi. Chính vì thế, tôi chọn đề tài: “Một số biện pháp luyện đọc đúng cho học sinh lớp 1 trong các tiết tập đọc”. II. Mục đích Nghiên cứu vai trò của người giáo tầm quan trọng của người giáo viên khi dạy tiết Tập đọc, dựa vào nhận thức của học sinh khi dạy học Tập đọc là vô cùng quan trọng để hoàn thành 4 kỹ năng nghe, nói, đọc, viết. Từ đó, đề ra những biện pháp, khắc phục những hạn chế giúp cho giờ dạy Tập đọc đạt hiệu quả cao. III. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu là học sinh thông qua các tiết Tập đọc trong quá trình giảng dạy lớp 1. IV. Phương pháp nghiên cứu 1. Phương pháp quan sát; 2. Phương pháp trực quan 3. Phương pháp đàm thoại, phỏng vấn; PHẦN B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. Cơ sở lý luận Môn Tập đọc ở trường Tiểu học có nhiệm vụ hình thành năng lực hoạt động ngôn ngữ cho học sinh. Năng lực này được thể hiện thống nhất trong 4 kĩ năng tương ứng : nghe, nói, đọc, viết. Như vậy đọc là quá trình chuyển dạng từ viết sang lời nói có âm thanh và thông hiểu chúng. Đọc một văn bản viết gồm hai quá trình: đọc thành âm thanh văn bản đó và đọc để hiểu nội dung văn bản. Hiệu quả đọc thầm được đo bằng khả năng thấu hiểu nội dung văn bản đọc. Do đó việc dạy đọc thầm chính là dạy học có ý thức, dạy đọc hiểu. Theo tâm lý ngôn ngữ học, người đọc muốn hiểu văn bản đọc phải nắm được các từ chìa khóa, những nhóm từ này mang ý nghĩa cơ bản. Đó là những từ giúp chúng ta hiểu được nội dung văn bản. Ở Tiểu học đặc biệt là học sinh lớp 1 thì phân môn Tập đọc có một vị trí quan trọng, dạy tốt môn Tập đọc là đáp ứng đầy đủ 4 kĩ năng sử dụng Tiếng Việt . Đối với lớp 1 đọc là vô cùng quan trọng vừa giúp các em có thể đọc để tiếp thu các môn học khác nhau vừa để nâng cao hoạt động giao tiếp giữa các em với mọi người xung quanh. Nếu đọc không tốt các em bị ảnh hưởng trực tiếp đến nhận thức các môn học khác ở trường. II. Thực trạng 1. Thuận lợi - Trường Tôi đang công tác là một ngôi trường lớn, lượng học sinh rất đông, cũng là ngôi trường nhiều năm liền đạt danh hiệu trường tiên tiến, trường học thân thiện - học sinh tích cực. - Ban giám hiệu nhà trường tạo mọi điều kiện phục vụ tốt nhất cho hoạt động. Cơ sở vật chất đầy đủ, trường khang trang sạch đẹp, học sinh được học hai buổi/ngày. - Quận, nhà trường, khối thường xuyên tổ chức các chuyên đề để các giáo viên học tập, từ đó có sự trao đổi, góp ý kiến, thống nhấ về nội dung và hình thức tổ chức hoạt động. - Đa phần học sinh trong lớp có bố hoặc mẹ là cán bộ công nhân viên. Học sinh có ý thức tốt về đạo đức, ngoan ngoãn vì gia đình có ảnh hưởng rất lớn đối với các em. Ngoài thời gian đi học hầu hết thời gian còn lại các em sống với gia đình. -Ở trong lớp nhiều học sinh có năng lực tổ chức, có trách nhiệm, nhiệt luyện đọc từng tiếng, từng từ, từng câu... Ở lớp 1 giáo viên cần dành nhiều thời gian cho học sinh luyện tập đọc thông thạo văn bản trước khi kết hợp tìm hiểu nội dung văn bản.Song lưu ý: nếu trình độ học của học sinh chưa tốt, các em đọc chưa thông thạo văn bản giáo viên cần chú ý rèn luyện kĩ năng đọc văn bản nhiều hơn. Đọc để hiểu nội dung văn bản: Mục đích cuối cùng của việc đọc là để thông hiểu nội dung văn bản. Có nhiều cấp độ tạo nên sự thông hiểu toàn bộ nội dung văn bản: sự hiểu nghĩa của từ ngữ, nghĩa của câu, của đoạn và của toàn văn bản. Ngay ở mức độ đọc thầm, việc phát lại các thông tin thành âm thanh ngôn ngữ vẫn được thực hiện trong trí não người đọc. Vì thế người bên ngoài không thể nghe được các âm thanh này. Cơ chế trên cho ta thấy có thể dạy cho học sinh từ việc luyện đọc thành tiếng thành thạo chuyển sang dần tập đọc lẩm nhẩm và đọc thầm, đọc to cho các bạn cùng nghe nên cần đọc đủ lớn để cho tất cả những người này nghe rõ. Nhưng như thế không có nghĩa là đọc quá to hoặc gào lên. Giáo viên nên cho học sinh đứng trên bảng để đối diện với những người nghe. Tư thế đứng đọc phải vừa đàng hoàng, vừa thoải mái, sách phải được mở rộng và cầm bằng hai tay. Tóm lại: Giáo viên cần điều tra lỗi phát âm của học sinh từng vùng để có biện pháp sửa chữa thích hợp. Hướng dẫn đọc cụ thể với những câu thơ, khổ thơ khó ngắt nhịp. Luyện ngắt nghỉ hơi đúng chỗ nhằm tạo cho văn bản âm thanh phản ánh đúng văn bản ghi bằng văn tự. 2. Nội dung phân môn Tập đọc lớp 1 Quá trình tìm hiểu nội dung sách giáo khoa Tiếng Việt 1 tập 2 , tôi nhận thấy hầu hết các bài Tập đọc đều là những tác phẩm nghệ thuật ngắn, dễ hiểu, dễ nhớ, gần gũi đối với lứa tuổi các em. Mỗi bài đã được các nhà viết sách lựa chọn nhằm cung cấp một lượng kiến thức nhất định. Về nội dung các bài Tập đọc lớp 1 xoay quanh các chủ đề : Gia đình, nhà trường, bạn bè, ... Trong số các bài văn xuôi và thơ đều có nội dung ngắn gắn liền với cuộc sống, khung cảnh thiên nhiên gần gũi, tình cảm gia đình đầm ấm nhẹ nhàng, dễ hiểu, dễ thuộc, dễ nhớ. Tạo cho các em hứng thú nhiều hơn với phân môn Tập đọc. Cụ thể như: Từ học sinh đọc nhầm “bàn tay” thành “bàng tai”; “hằng ngày”thành ‘hàng ngài’; “Gầy gầy” thành “gày gày”. Giáo viên cũng nên để cho học sinh tự nêu những từ mà các em cảm thấy khó đọc trong khi phát âm. Thí dụ: Bài “Chú công” sách giáo khoa chỉ yêu cầu luyện đọc từ “nâu gạch, rẻ quạt, rực rỡ, lóng lánh” nhưng các em học sinh lớp tôi đã nêu ra được 2 từ mà các em cho là khó đọc đó là: “màu sắc, xoè tròn” vì khi đọc dễ bị lẫn “màu sắc” với “mầu sắc”, “xoè tròn” với “xèo tròn” . Khi luyện đọc từ ngữ, giáo viên cần gọi nhiều học sinh yếu đọc. Đồng thời nếu em đọc còn chậm, nhận diện vần lâu thì giáo viên nên yêu cầu em phân tích từng tiếng một. Tuy nhiên để giúp các em yếu đọc tốt, giáo viên cũng cần gọi một vài em giỏi đọc trước vì các em này đọc to, chính xác nên các em yếu sẽ bắt trước mà đọc tốt hơn. Tuy vậy, giáo viên cũng cần chỉ các từ không theo thứ tự để tránh các em yếu “đọc vẹt”. Sau khi học sinh đọc được từ, giáo viên kết hợp giảng nghĩa của từ luôn, có thể bằng tranh, ảnh, vật thật để giúp các em đọc hiểu được nghĩa của từ mà đọc được đúng hơn. Cần tăng cường cho các em nhận xét nhau đọc, đúng hay say, nếu sai thì ở đâu, các em có thể tự sửa lại cho bạn. Nếu học sinh không làm được việc đó, giáo viên phải kịp thời uốn nắn sửa sai ngay cho các em. Nhất thiết phải có khen chê kịp thời. Sau đó cả lớp sẽ đọc đồng thanh thứ tự các từ khó b. Đọc đúng các bài thơ Thơ có tính truyền cảm rất sâu vừa có hình ảnh, vừa có nhạc, khi lắng đọng, lúc ngân vang.. .Cần thể hiện tình cảm khi đọc thơ, có thể là giọng náo nức, tưng bừng; khi trầm buồn hoặc nhẹ nhàng, sâu lắng. nhưng vẫn giữ được tính tự nhiên của giọng đọc, tránh lên bổng, xuống trầm một cách giả tạo, máy móc.Do vậy khi dạy những bài đọc thơ ở giai đoạn đầu tôi thường chép lên bảng các câu thơ cần chú ý ngắt giọng rồi hướng dẫn. Ví dụ: Bài “Cái Bống” Ví dụ : Bài “Hoa ngọc lan””- “Ở ngay đầu hè nhà bà em / có một cây hao ngọc lan.” “Vào mùa lan, sáng sáng, bà thường cài một búp lan/ lên mái tóc em.” Tôi đã đưa câu này lên màn hình và hướng dẫn cách ngắt hơi như trên . Ví dụ : Bài “Đầm sen”” học sinh đã phát hiện ra câu dài trong bài là ngắt giọng nhý sau: “Suốt mùa sen / sáng sáng lại có những ngýời ngồi trên thuyền nan / rẽ lá / hái hoa” Tôi ỗã bổ sung thêm cách nghỉ hơi cho các em như sau: “Suốt mùa sen , / sáng sáng / lại có những người ngồi trên thuyền nan / rẽ lá / hái hoa //” Tôi giải thích ta ngắt ở sau từ “sáng sáng” để nhấn mạnh thêm về thời gian mà con người đi thăm đầm sen. Ví dụ: Bài“ Sau cơn mưa” : “Mẹ gà mừng rỡ / ‘tục tục’ / dắt bầy con / quây quanh vũng nước / đọng trong vườn” Tôi giải thích ngắt hơi ở từ ‘tục tục” là để nhấn mạnh tiếng kêu của gà mẹ gọi con. *Đối với những bài có lời thoại, giáo viên phải hướng dẫn kỹ học sinh cách lên giọng cuối câu hỏi và xuống giọng cuối câu kể (câu trả lời) Ví dụ : Bài “Vì bây giờ mẹ mới về” Tôi đã hướng dẫn học sinh đọc từng câu thoại của mẹ và của con. Những câu hỏi của mẹ: Con làm sao thế ? Đứt khi nào thế ? (đọc lên giọng cuối câu) Những câu trả lời của cậu bé. Con bị đứt tay. Lúc nãy ạ ! Vì bây giờ mẹ mới về (đọc xuống giọng ở cuối câu) Hoặc có thể cho học sinh đọc theo phương pháp đóng vai Ví dụ: Bài “vẽ ngựa”, Vì bây giờ mẹ mới về”, 'Người trồng na”. Sau khi sửa xong lỗi ngắt giọng cho học sinh, giáo viên phải gọi nhiều em đọc, các học sinh khác nghe và nhận xét bạn đọc.Việc luyện đọc cho học sinh đọc đúng từ, câu sẽ giúp cho việc đọc đoạn, bài được trôi chảy, lưu loát hơn và học sinh nắm chắc được cách đọc đúng văn bản được học mà không phải tình trạng học vẹt. Để tiết học nhẹ nhàng, không nhàm chán mà lại nhiều em được luyện đọc thì giáo viên phải tổ chức đọc theo nhiều hình thức khác nhau như đọc cá nhân, đọc theo nhóm, theo tổ hoặc đồng thanh. Những hình thức này còn giúp giáo viên kiểm soát được khả năng đọc của toàn thể học sinh trong lớp. 6. GV yêu cầu HS đọc bài trước ở nhà: bài cũ lẫn bài mới. Đọc bài cũ để GV kiểm tra lại cách đọc và mức độ cảm thụ bài của HS; đọc bài mới để đến lớp các em đọc tốt hơn. Ngoài ra còn đọc các bài đọc thêm trong sách giáo khoa; khuyến khích các em đọc những truyện cổ tích, truyện tranh để trau dồi kĩ năng đọc chữ ở các em. 7. Giáo viên cần động viên, khích lệ, tuyên dương và sửa sai kịp thời 8. Giáo viên phải có sự chuẩn bị bài trước khi lên lớp, phải dự đoán được tình huống có thể xảy ra trong bài dạy, từ đó có biện pháp thích hợp để giải quyết tình huống đó. 9. Giáo viên chuẩn bị đủ đồ dùng trực quan trong giờ dạy học. Giáo viên luôn coi học sinh là trung tâm của mọi hoạt động, còn giáo viên chỉ là người tổ chức hướng dẫn học sinh. 10. Để đạt được các yêu cầu trên đòi hỏi người giáo viên phải có trình độ nhất định về kiến thức, phải linh hoạt sáng tạo trong việc đổi mới phương pháp dạy học. Ngoài ra một điều không thể thiếu đó là lòng nhiệt tình, sự tận tâm với nghề, dức tính chịu khó kiên trì, với viên. PHẦN C. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ Rèn kĩ năng đọc cho HS là một quá trình rèn luyện lâu dài. Mỗi một bài tập đọc có yêu cầu luyện đọc khác nhau. Vì vậy người giáo viên phải nắm chắc mục đích yêu cầu về việc rèn kĩ năng đọc của từng bài gồm: Đọc thành tiếng và đọc hiểu. + Đọc thành tiếng: Học sinh đọc trơn toàn bài, cường độ và tốc độ đọc vừa phải; đọc đúng các từ mới, các từ có vần khó trong bài, các từ do ảnh hưởng của cách phát âm địa phương; biết nghỉ hơi sau các dấu chấm, dấu phẩy và giữa các cụm từ; bước đầu biết đọc phân biệt lời kể chuyện với lời nhân vật. Trong phần luyện đọc thành tiếng GV cho HS đọc cá nhân, đọc trong nhóm (cá nhân, đồng thanh; từng đoạn, cả bài), đọc đồng thanh, đọc phân vai. Sau mỗi lượt đọc GV yêu cầu HS nhận xét bạn đọc, GV chốt lại rút kinh nghiệm để các em đọc tốt hơn. + Đọc hiểu: Chủ yếu là đọc thầm, GV giao việc cụ thể cho HS nhằm định
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_luyen_doc_dung_cho_ho.docx