Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh Lớp 1
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh Lớp 1", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh Lớp 1
Tên Sáng kiến: “Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1” Tác giả : Trần Thị Duyên Chức vụ: Giáo viên Đơn vị công tác : Trường Tiểu học Tân Thành I. Phần mở đầu: 1. Lời mở đầu : Môn Tiếng Việt ở lớp 1 hình thành bốn kĩ năng: đọc - viết - nói - nghe cho học sinh. Trong bốn kĩ năng đó, kĩ năng đọc rất quan trọng vì đó là kết quả cả một quá trình học tập, nhận biết được các âm, vần, tiếng, từ, câu và tiếp đến sẽ đọc các bài văn, bài thơ đồng thời hiểu nội dung bài đọc. Khi các em đọc đúng thì mới viết đúng, bài chính tả sẽ ít lỗi hơn, diễn đạt tốt các vấn đề muốn nói, giúp các em tự tin hơn trong giao tiếp. Ngay từ đầu lớp 1, việc học môn Tiếng Việt theo chương trình giáo dục phổ thông năm 2018 đã thể hiện rất rõ tầm quan trọng của môn Tiếng Việt, là môn có số tiết nhiều nhất trong các môn học ở lớp 1. Bộ sách “Chân trời sáng tạo” đã thay đổi hoàn toàn hình thức cũng như nội dung dạy học so với bộ sách giáo khoa trước đây. Mỗi bài học được xây dựng theo từng chủ đề rất cụ thể. Vì vậy giáo viên từng bước thực hiện nhiệm vụ dạy tốt môn Tiếng Việt, cụ thể là rèn đọc cho các em trong môn Tiếng Việt tạo điều kiện học tốt các môn học khác có trong chương trình. 2. Lý do chọn đề tài: Kỹ năng đọc rất quan trọng, vì đọc tốt sẽ giúp các em hiểu nội dung bài đọc, phát triển tư duy, cảm nhận được những cái hay, cái đẹp trong mỗi bài học, mặt khác hiểu được các lệnh các yêu cầu trong các môn học khác. Ở lớp Một các em được tập đọc thành thạo, đọc đúng, đọc trôi chảy thì khi lên các lớp trên các em sẽ học vững vàng, học tốt hơn. Chính vì những lý do trên mà tôi chọn đề tài “Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp Một”. 3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu: *Phạm vi nghiên cứu : Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1 . *Đối tượng nghiên cứu: Rèn đọc cho học sinh lớp 1/2 Trường Tiểu học Tân tổ chức bồi dưỡng giáo viên, tổ chức thao giảng, chuyên đề thảo luận về chuyên môn rút ra những ý kiến hay, những đề xuất kinh nghiệm tốt áp dụng trong việc giảng dạy. - Đội ngũ giáo viên trong khối nhiệt tình, đoàn kết, sẵn sàng giúp đỡ đồng nghiệp. Có ý thức đổi mới phương pháp dạy học, yêu nghề mến trẻ, hết lòng vì học sinh thân yêu. - Các em được học 2 buổi/ ngày, phòng học trang bị đầy đủ cơ sở vật chất để phục vụ cho việc học tập của các em. Đa số các em học sinh rất ham tìm tòi hiểu biết, ngoan và có ý thức tốt. - Sĩ số học sinh bình quân mỗi lớp 31 em thuận lợi trong việc giảng dạy. - Phần lớn phụ huynh quan tâm đến việc học tập của học sinh. - Chương trình và sách giáo khoa lớp Một có sự lựa chọn các nội dung cơ bản, hiện đại trong từng lĩnh vực học tập, bước đầu thực hiện tích hợp trong từng môn học và giữa các môn học có nhiều mối quan hệ với nhau do đó đã tinh giảm được các nội dung giáo dục, kênh hình và kênh chữ rõ ràng, đẹp. b . Khó khăn : - Trình độ học sinh trong lớp không đồng đều. Bên cạnh những em phát triển, học tốt, tiếp thu nhanh vẫn còn một số em phát triển chậm về trí nhớ, học trước quên sau, chậm nhớ, mau quên, chưa tập trung trong giờ học. - Học sinh đọc theo quán tính, đọc dựa vào hình ảnh (học vẹt, học thuộc lòng mà không nhớ mặt chữ ) - Còn một phần không ít cha mẹ học sinh còn bộn bề lo toan cuộc sống, không và chưa quan tâm đúng mức đến việc học tập của con em mình, chưa phối hợp tốt cùng giáo viên nhắc nhở các em đọc bài ở nhà. III/ Các biện pháp 1. Tác động giáo dục Đọc theo nhóm Thi đua đọc theo tổ 2.Sử dụng đồ dùng dạy học một cách đa dạng, linh hoạt, phù hợp, hiệu quả. - Đồ dùng dạy học là phương tiện vô cùng quan trọng và cần thiết nhằm giúp cho học sinh nắm bắt kiến thức một cách tự nhiên, nhẹ nhàng. Từ chỗ tận mắt các em nhìn, tự tay các em thực hành dẫn đến các em chiếm lĩnh kiến thức một cách tự giác, hứng thú, không bị áp đặt, giúp các em khắc sâu kiến thức hơn đồng thời giúp các em thấy được kiến thức toán học có mối quan hệ chặt chẽ với thực tiễn, tạo cho học sinh ý thức vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn cuộc sống. - HS phải được quan sát vật thật, tranh ảnh...và cả việc làm mẫu của giáo viên. Vỉ dụ : Khi dạy bài âm “e, ê Bước 1: Quan sát tranh Bước 2: Nêu những gì em nhìn thấy trong bức tranh Bước 3: Rút được âm cần đọc, viết trong bài e, ê Ví dụ: Dạy bài uôi - ươi - Giáo viên cho HS xem tranh ảnh hoặc vật thật để rút ra từ khoá và câu ứng dụng nải chuối trái bưởi - Đối với vần khó hay nhầm lẫn như vần uôm, ươu, oach... Các em phải nghe giọng đọc kết hợp nhìn khuôn miệng của giáo viên khi phát âm, hình ảnh hoặc vật thật. Đồ dùng dạy học tự làm Đồ dùng dạy học tự làm 3. Phân tích tổng hợp: - PP này được sử dụng trong dạy Học vần thực chất là tách các hiện tượng ngôn ngữ theo các cấp độ: âm - vần - tiếng - từ * Ví dụ: Dạy bài uôi - ươi - Phân tích cấu tạo vần uôi - HS ghép vần - đánh vần - đọc trơn vần. - Ghép tiếng chứa vần uôi, ươi : chuối - HS phân tích tiếng - đánh vần - đọc trơn. - Đọc từ khoá: nải chuối * Tác dụng: HS tự ghép vần tiếng và phân tích nên nắm chắc chắn bài học, tiếp thu kiến thức có hệ thống . 4. Thực hành giao tiếp: - PP này được tiến hành trên cơ sở các câu hỏi của giáo viên và sự trả lời của HS để tìm ra tri thức mới. - Giáo viên cần đưa ra hệ thống câu hỏi ngắn gọn tập trung nội dung kiến thức - Khi sử dụng PP này làm cho tiết học sinh động, duy trì được hứng thú của HS. Các em được học tập một cách chủ động tích cực. Do đặc trưng tâm lí lứa tuổi, học sinh lớp 1 đặc biệt hào hứng với các trò chơi. Nắm được điều này, giáo viên có thể động viên học sinh chủ động, tự giác học bài thông qua các trò chơi học tập. Đây là dạng hoạt động học tập được tiến hành thông qua các trò chơi có mục đích hình thành kĩ năng Tiếng Việt. Có thể tổ chức cho học sinh chơi sau khi học bài mới (kết hợp luyện tập) hoặc sau khi luyện tập. Tùy theo bài học và mục đích “chơi”, giáo viên tổ chức hoạt động chơi của học sinh một cách linh hoạt. Trong quá trình chơi, các em có thể sử dụng đồ dùng dạy học, lời nói hay thao tác của tay, chân... để chơi một số trò chơi như đố chữ, thi tìm đúng, nhanh âm- vần vừa học, thi ghép vần, hái quả, hái hoa dân chủ, ong tìm hoa, thỏ tìm nhà, ... Trò chơi học tập góp phần làm cho giờ học sinh động, duy trì được hứng thú của học sinh .Qua trò chơi, các em được học tập một cách chủ động, tích cực. * Ví dụ: Dạy bài uôi - ươi Trò chơi : Ong tìm hoa - HS chơi tiếp sức 3 tổ để đính những chú ong chứa tiếng có vần uôi, ươi vào bông hoa mang vần uôi, ươi. Trò chơi tiếp sức: “Ong tìm hoa” * Tác dụng: HS nhận diện được tiếng chứa vần uôi, ươi, nắm chắc chắn bài học, tiếp thu kiến thức một cách tích cực, lớp học sôi nổi, HS tự tin tham gia trò chơi. 6. Rèn cho học sinh đọc âm, vần, tiếng, từ, câu. khởi, các em tham gia sôi nổi nhiệt tình. - Rèn đọc câu: HS nắm vững, nhớ được các âm, vần, ghép được tiếng, từ thì các em sẽ nhớ được mặt chữ đọc đúng và nhanh các câu thơ, câu văn trong bài. Bài “Thăm quê” ( trích 1 khổ thơ đầu) trang 138 - tập 1 “Em về / thăm nội Thăm ông / thăm bà Sum vầy / cô bác Sau ngày / cách xa.” Bài “Bưu điện Thành phố Hồ Chí Minh”- trang 118 - tập 2 “Bưu điện Thành phố Hồ Chí Minh / còn có tên là / Bưu điện Trung tâm Sài Gòn” Như vậy: đọc câu suông sẻ hơn, giúp học sinh dễ nhớ và đọc tốt. Từ đó xây dựng được học sinh thói quen phân tích câu và hiểu nghĩa của câu, biết cách dùng từ. GV thường xuyên tạo cơ hội cho HS được chia sẻ với người thân về kiến thức đã được học trên lớp áp dụng vào cuộc sống thực tế ở nhà: VD: Bài uôi - ươi, sách TV, tập 1, trang 158 Phần trò chơi, GV yêu cầu HS đọc lại các từ chứa tiếng có vần uôi-ươi. 7. Ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy Tiếng Việt Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 1 có rất nhiều kênh hình, đoạn clip nên việc thiết kế giáo án điện tử với hiệu ứng đổi màu chữ, gạch chân dưới yêu cầu của đề bài sẽ giúp học sinh khắc sâu hơn. Các hoạt động trong bài có thể dùng hình ảnh phù hợp để minh họa cho đề bài. Khi tổ chức trò chơi có thể thêm âm thanh như tiếng chuông, tiếng vỗ tay, .. .để thu hút sự chú ý của học sinh. Khen thưởng học sinh có tiến bộ IV. Phần kết luận: l.Hiệu quả mang lại của sáng kiến: Qua thời gian vận dụng các biện pháp rèn đọc trên vào môn Tiếng Việt, chúng tôi thấy chất lượng học tập của học sinh ngày càng được nâng cao, học sinh tiếp thu kiến thức một cách chủ động, các em cảm thấy mạnh dạn, tự tin hơn, tích cực tham gia học tập hơn, các tiết học lúc nào cũng sôi nổi, nhẹ nhàng, đạt hiệu quả tốt. Đến nay, tất cả các em đều thích học môn Tiếng Việt và học tập ngày càng tiến bộ, số lượng học sinh hoàn thành tốt tăng lên, học sinh chưa hoàn thành giảm xuống đáng kể, giảm thiểu số học sinh đánh vần và chưa đọc được. Qua quá trình giảng dạy tôi đã tự tìm tòi, học hỏi và vận dụng các biện pháp trên vào giảng dạy. Tôi thấy chất lượng giảng dạy của bản thân được nâng lên và có hiệu quả rõ rệt với học sinh, kết quả học tập của học sinh được đánh giá là có tiến bộ rõ rệt. - Học sinh chủ động tiếp thu được kiến thức, đọc lưu loát hơn, hình thành kỹ năng nghe viết tốt ở mỗi học sinh. - Qua việc rèn đọc cho học sinh với những biện pháp nêu trên giúp cho học sinh lớp tôi đạt được kết quả như sau : dưỡng, rèn luyện cho học sinh. - Trong từng bài dạy giáo viên phải xác định rõ năng lực, phẩm chất mà học sinh cần đạt được qua kế hoạch bài dạy. - Khi giảng dạy thì giáo viên cần lựa chọn phương pháp phù hợp, đổi mới phương pháp giảng dạy, lấy học sinh làm trung tâm, khen ngợi và động viên học sinh có tiến bộ để các em ham thích đọc bài. - Luôn có sự đồng hành, phối kết hợp của Cha mẹ học sinh. Trên đây là một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1 đã được vận dụng và đạt hiệu quả cao. Tôi rất mong được sự đóng góp ý kiến của đồng nghiệp và sự giúp đỡ của Ban Giám hiệu nhà trường. Tôi xin chân thành cảm ơn ! Ngày 27 tháng 2 năm 2023 Người viết Trần Thị Duyên
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_ren_doc_cho_hoc_sinh.docx