Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh dân tộc thiểu số Lớp 1
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh dân tộc thiểu số Lớp 1", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh dân tộc thiểu số Lớp 1
MỤC LỤC STT Nội dung Trang Phần thứ nhất: Mở đầu 1 Đặt vấn đề 2 Mục tiêu 3 Phần thứ hai: Giải quyết vấn đề Cơ sở lí luận 3 Thực trạng vấn đề 4 2 Các giải pháp để giải quyết vấn đề 6 Tính mới của giải pháp 10 Hiệu quả của sáng kiến 10 Phần thứ ba: Kết luận, kiến nghị 3 Kết luận 11 Kiến nghị 11 Tài liệu tham khảo 13 1 bằng tiếng Việt giống như ở lớp mẫu giáo nên hầu hết các em đã quên hết các chữ cái đã được học hoặc chỉ nhớ được một vài chữ. Chính vì vậy khi bước vào lớp 1 các em gặp phải muôn vàn khó khăn. Với mong muốn giúp học sinh lớp 1 khắc phục những ảnh hưởng của tiếng mẹ đẻ khi học Tiếng Việt. Rèn cho học sinh kĩ năng đọc trôi chảy để lĩnh hội kiến thức từ sách giáo khoa và các tài liệu tham khảo. Với ý nghĩa đó, tôi chọn và viết sáng kiến “Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh dân tộc thiểu số lớp 1” . Đề tài được nghiên cứu ở học sinh lớp 1, phân hiệu buôn Cuê từ năm học 2016 – 2017 cho đến nay. 2. Mục tiêu Mục tiêu của đề tài là đưa ra những giải pháp giúp giáo viên thực hiện có hiệu quả việc rèn luyện cho học sinh kĩ năng đọc đúng các âm, tiếng, từ, câu sao cho đúng tốc độ và trôi chảy toàn bài. Qua đó nhằm rèn luyện cho học sinh kỹ năng giao tiếp mạnh dạn, tự tin, lòng hứng thú, say mê đọc sách. Phần thứ hai: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. Cơ sở lí luận Đọc là một quá trình "nhận thức" phức tạp của việc giải mã các biểu tượng để tạo ra ý nghĩa. Đọc sách là cách tiếp thu ngôn ngữ, giao tiếp và chia sẻ thông tin và ý tưởng. Giống như ngôn ngữ, nó là một sự tương tác phức tạp giữa các văn bản và người đọc được định hình bởi kiến thức của người đọc, kinh nghiệm, thái độ, và cộng đồng ngôn ngữ, vốn phụ thuộc vào văn hóa và xã hội cụ thể. Quá trình đọc đòi hỏi phải liên tục thực hành, phát triển và tinh chỉnh. Ngoài ra, đọc đòi hỏi sự sáng tạo và phân tích bình luận. Người đọc văn chương thường chìm vào nội dung tác phẩm, nói cách khác là chuyển đổi ngôn ngữ thành các hình ảnh mô phỏng các địa điểm mà văn chương đã mô tả. Tiếng Việt là tài sản chung của dân tộc Việt Nam và là ngôn ngữ chính âm của quốc gia. Việc sử dụng đọc - viết tiếng Việt làm tiếng nói chung của toàn dân tộc ta, khẳng định vị trí và có chỗ đứng rõ nét nhất là từ năm 1945 đến nay. Từ ngành học Mầm non đến bậc học cao nhất kỹ năng đọc luôn gắn liền với con người Việt Nam. Nó góp phần to lớn vào việc phát triển Văn hoá – Khoa học – Kinh tế cho cả khối cộng đồng to lớn trong việc xây dựng đất nước Việt Nam. Quyết định số 16/2006/QĐ-BGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo về Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kỹ năng các môn học ở tiểu học đã yêu cầu sau khi học 3 tham gia các phong trào do trường tổ chức; thường xuyên dự giờ thăm lớp, trao đổi chuyên môn với đồng nghiệp, tìm hiểu các phương pháp rèn đọc và tăng cường tiếng Việt cho học sinh qua mạng internet và các phương tiện thông tin khác. Tuy nhiên kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm và giảng dạy chưa nhiều nên đôi lúc còn lúng túng trong việc rèn đọc cho học sinh; chưa mạnh dạn đổi mới phương pháp dạy học; có khi còn ngại sử dụng đồ dùng dạy học vì nhà ở xa trường; công tác phối hợp với cha mẹ học sinh chưa được chặt chẽ. Năm thứ tư thực hiện dạy chương trình Tiếng Việt 1 - CGD nhưng bản thân tôi đôi lúc vẫn còn lúng túng trong việc xác định phương pháp giảng dạy, kĩ thuật hướng dẫn học sinh đọc những vần, từ khó... sao cho hiệu quả nhất. Ba quyển sách thiết kế Tiếng Việt - CGD là ba quy trình khác nhau nên giáo viên mất khá nhiều thời gian trong việc nghiên cứu, đọc tài liệu cũng như tiếp cận phương pháp dạy học. * Về phía học sinh Biên chế lớp học đông (28 em), với hơn 90% là học sinh dân tộc thiểu số nên giáo viên thực sự vất vả trong việc quán xuyến, hướng dẫn cho học sinh trong một tiết học để đạt kết quả tốt nhất. Học sinh dân tộc thiểu số lớp Một là lớp học đầu cấp việc làm quen với chữ cái và phát âm chuẩn theo tiếng phổ thông là vô cùng khó khăn bởi sau ba tháng nghỉ hè các em hầu như đã quên hết chữ cái hoặc chỉ còn nhớ được một số chữ. Từ trước đến nay tiếng “mẹ đẻ” là ngôn ngữ giao tiếp chính trong cuộc sống hằng ngày của các em, khi giao tiếp bằng tiếng Việt nhiều em chưa nói được. Ngồi học các em không tập trung hay uể oải vì phải học nhiều hơn chơi không giống như học mẫu giáo. Đa số các em có tâm lý không bền vững nhanh chán, ít tập trung chú ý, hay quên đồ dùng học tập; ngồi đọc, cầm sách chưa đúng tư thế. Khả năng tiếp thu của học sinh không đồng đều, có em chưa biết đọc, đọc chưa đúng dấu thanh, hoặc tự thêm dấu vào tiếng. Mặt khác, học sinh dân tộc thiểu số thường có thói quen thích là nghỉ học để theo cha mẹ đi làm ở xa hay ở nhà trông em, đi nhặt cà phê, điều, .... cho cha mẹ nên việc tiếp thu kiến thức gặp rất nhiều khó khăn. * Về phía cha mẹ học sinh Trường đóng trên địa bàn xã có điều kiện kinh tế khó khăn, người dân chủ yếu làm nghề nông, mặt bằng dân trí thấp, gia đình mải làm ăn kinh tế nên ít quan tâm hoặc thờ ơ với việc học tập của con cái. Đa số phụ huynh học sinh chưa nắm được cách đọc sao cho đúng hoặc không biết chữ, nên việc rèn luyện thêm ở nhà cho con còn nhiều hạn chế. Một số em có người thân hướng dẫn đọc trước theo chương trình hiện hành nên giáo viên gặp khó khăn trong việc sửa lại lỗi phát âm sai. Khi học sinh ở 5 Năm học 2016 – 2017 tôi được giao nhiệm vụ chủ nhiệm lớp 1C. Khi được bàn giao và nhận lớp, tôi đã tiếp xúc với từng em học sinh, nắm bắt hoàn cảnh của các em. Trong đó có em H Kali Knul, nhà rất nghèo, bố mẹ đi làm thuê, nhà ở dột nát, tính em nhút nhát, gia đình mải làm ăn nên ít quan tâm đến việc học của em. Bản thân đã kêu gọi sự hỗ trợ từ phía Ban giám hiệu, Đoàn Thanh niên, Tổng phụ trách Đội nên đã giúp đỡ em về quần áo, sách vở để em yên tâm đến trường. Bản thân luôn gần gũi, thường xuyên gọi HS đọc hay phát biểu trước lớp để em được mạnh dạn, tự tin. 2. Đa dạng các hình thức rèn đọc a) Rèn trong giờ học Tiếng Việt Đối với học sinh dân tộc thiểu số lớp 1, kĩ năng đọc đúng là quan trọng nhất. Đây là biện pháp quan trọng hàng đầu, đòi hỏi người giáo viên phải có những hiểu biết, kinh nghiệm kĩ năng hướng dẫn tốt. Với môn Tiếng Việt CGD, mỗi một bài học được chia ra làm 4 việc. Trong đó việc thứ 3 yêu cầu đọc. Ở đây muốn học sinh đọc tốt thì trước tiên giáo viên phải đọc và phát âm đúng và chuẩn để học sinh nghe đọc và phát âm lại. Khi hướng dẫn học sinh phát âm, cần dùng lời nói mạch lạc, đơn giản để học sinh dễ hiểu và học sinh có thể tự mình phát âm đúng. Giáo viên tổ chức cho học sinh đọc bài dưới nhiều hình thức như: cá nhân, nối tiếp, nhóm, đồng thanh để bao quát và nắm được khả năng đọc của cả lớp; tổ chức cho học sinh thi đọc với nhau hoặc tổ chức các trò chơi học tập để tạo niềm vui và phấn khởi, giúp các em hứng thú tham gia vào tiết học. Đặc biệt khi dạy kĩ năng đọc chúng ta phải phân hóa đối tượng học sinh, chú ý quan tâm đến tất cả các đối tượng học sinh trong lớp, dạy theo nhóm trình độ của học sinh. Hướng dẫn cho các em đọc đúng, phát âm chuẩn. Nếu học sinh đọc đúng, đọc tốt thì giáo viên dành cho luyện đọc nâng cao. Đối với học sinh có khả năng tiếp thu hạn chế phải quan tâm động viên các em kịp thời, cẩn thận, tỉ mỉ, khi đã thấy sự tiến bộ mặc dù là chi tiết nhỏ cũng nên động viên và khuyến khích để học sinh có tinh thần phấn khởi học tập. Động viên và giao nhiệm vụ cho các bạn có năng khiếu hỗ trợ và chỉ dạy thêm cho các em. Nhắc nhở học sinh không trêu ghẹo, không đùa nghịch mà tạo cơ hội cho bạn sửa chữa. Còn với các em học sinh đi học chưa chuyên cần giáo viên cần tạo các sân chơi học tập, mạnh dạn đổi mới các phương pháp dạy học tập để thu hút các em tham gia vào tiết học, hăng hái đến trường. Giáo viên phải kiên trì liên tục và có hệ thống. Thông thường các em đọc sai rất ngại đọc vì sợ các bạn chê cười, chế nhạo,... Giáo viên phải giải toả tâm lí cho học sinh bằng những lời khen, lời động viên dù nhỏ. Đồng thời phải giải thích cho các em cùng hiểu, để cùng thông cảm, chia sẻ, giúp đỡ bạn đọc tốt hơn. 7 gian 10 phút vào đó tôi giành để hướng dẫn lại kĩ năng đánh vần, đọc trơn cho em. Sau hai tháng kiên trì em đã có thể tự đọc trơn bài đọc. Mặt khác, trong quá trình dạy với những HS hạn chế về trí nhớ, chưa thuộc bảng chữ cái, giáo viên đánh những chữ học sinh hay quên dán lên tường của lớp, hướng dẫn những học sinh đọc tốt thỉnh thoảng chỉ cho các bạn đọc chưa tốt đọc trong giờ ra chơi hay trước khi vào lớp. Với cách này giống như vừa học, vừa chơi, “mưa dầm thấm lâu” dần dần các em cũng thuộc được chữ cái và biết đọc nhưng tốc độ đọc còn chậm. Ngoài ra, mỗi tuần 1 lần giáo viên tổ chức các trò chơi học tập để rèn kỹ năng đọc cho HS. Chẳng hạn như tổ chức thi đọc hoặc nhìn tranh đoán chữ, bốc thăm được chữ nào đọc chữ đó, thi đọc chữ có chứa âm/vần đã học trong câu, . Ví dụ: Đọc tiếng chứa vần ân trong câu sau: Vân và Lan chơi với nhau rất thân. Bằng cách này học sinh rất thích thú, đã rèn được kỹ năng đọc cho HS. 3. Làm tốt công tác phối kết hợp a) Phối hợp chặt chẽ với các giáo viên bộ môn Trong lớp, không chỉ có giáo viên chủ nhiệm giảng dạy mà còn giáo viên dạy các môn chuyên biệt như Âm nhạc, Mĩ thuật, Thể dục. Để giúp học sinh đọc tốt giáo viên cần phối hợp với những giáo viên này. Bản thân tôi ngay từ đầu năm học đã lập danh sách những học sinh đọc tốt và những học sinh còn hạn chế về kĩ năng đọc gửi về cho các giáo viên bộ môn trong lớp; trao đổi với giáo viên bộ môn về khả năng tiếp thu của từng học sinh, những em có kĩ năng đọc yếu và những học sinh cần lưu ý đặc biệt để giáo viên bộ môn quan tâm hỗ trợ kịp thời. Giáo viên chủ nhiệm trao đổi với giáo viên bộ môn cách rèn đọc, tăng cường tiếng Việt cho các em bằng cách tổ chức các trò chơi liên quan đến nội dung rèn đọc. Ví dụ: Trong giờ Thể dục, kết hợp với giáo viên phụ trách hướng dẫn cho các em chơi trò chơi vận động nhảy vào ô chứa chữ cái và vần sao cho đúng. Hướng dẫn học sinh nhảy một chân vào các ô chứa các âm k, q, ngh, ch. Nhảy hai chân vào các ô chứa vần ăn, ân, am, ăng. Như vậy trong một tiết học thể dục, giáo viên vừa có thể đảm bảo được nội dung yêu cầu của bài, vừa có thể giúp học sinh dân tộc thiểu số rèn kĩ năng đọc mọi lúc mọi nơi. b) Phối hợp chặt chẽ với cha mẹ học sinh 9 Năm học 2016 - 2017 Năm học 2017 - 2018 Không Nhận Không Nhận Nhận Nhận nhận biết nhận biết biết biết TS biết TS được biết được tất được được tất HS được HS một số được cả chữ một số cả chữ chữ cái chữ cái chữ cái chữ cái cái nào cái nào Trước khi thực hiện đề 28 9 12 7 22 7 8 7 tài Sau khi thực 28 20 6 2 22 16 4 2 hiện đề tài Phần thứ 3: KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ I. Kết luận Rèn kĩ năng đọc có ý nghĩa rất quan trọng và cần thiết trong dạy học môn Tiếng Việt lớp 1. Đối với học sinh dân tộc thiểu số việc rèn đọc lại càng cấp thiết hơn. Đọc giúp các em chiếm lĩnh được ngôn ngữ để sử dụng trong giao tiếp và học tập. Đọc là một công cụ, là chìa khóa mở ra kiến thức các môn học. Đọc tạo ra hứng thú và động cơ học tập. tạo điều kiện để học sinh phát huy khả năng tự học và tinh thần học tập suốt đời không ngừng nghỉ. Chính vì vậy, để rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số đạt hiệu quả thì người giáo viên cần đưa ra những biện pháp nhằm hình thành và phát triển một cách có hệ thống về năng lực đọc cho từng học sinh. Trước tiên là kĩ năng đọc đúng âm, vần, tiếng, từ, câu, đoạn, bài và sau đó là nâng cao dần kĩ năng đọc hay, đọc diễn cảm. Qua đó nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng Việt. Kĩ năng đọc của học sinh không phải tự nhiên mà chuẩn được, cũng không phải trong một thời gian ngắn có thể khắc phục và hoàn thiện. Đó là cả một quá trình rèn luyện và phối hợp giữa người dạy và người học. Để đảm bảo mục tiêu bài học trong quá trình dạy mỗi giáo viên phải hết sức nhiệt tình, tâm huyết với nghề, hiểu được tâm lí, khả năng học tập của từng em học sinh; luôn tìm tòi, sáng tạo trong việc tổ chức rèn đọc cho học sinh. Thường xuyên tự học, tự bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, tham gia các buổi sinh hoạt chuyên môn, nghiên cứu sâu sách thiết kế, linh hoạt, sáng tạo trong dạy học. Thông qua việc rèn kĩ năng đọc giúp các em có khả năng giao tiếp linh hoạt, nhạy bén phù hợp. 11
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_ren_ki_nang_doc_cho_h.doc