Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh Lớp 1

doc 17 trang sklop1 27/11/2023 2320
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh Lớp 1", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh Lớp 1

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh Lớp 1
 1. Tên đề tài:
 MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG ĐỌC CHO HỌC SINH LỚP 1
 2. Đặt vấn đề: 
 Văn học là nghệ thuật của ngôn ngữ, là sự nhận thức về thế giới cuộc 
sống con người và xã hội. Tác phẩm văn học dùng phương tiện ngôn từ để 
sáng tạo nên những hình tượng về cuộc sống con người, quê hương, xử sở và 
đem lại cho người đọc những rung cảm thực sự trong sáng. 
 Trong nhà trường tiểu học ở Việt Nam đã coi Tiếng Việt là một môn học 
trung tâm, làm nền móng các môn học khác. Môn Tiếng Việt ở trường tiểu 
học có nhiệm vụ vô vùng quan trọng đó là hình thành 4 kỹ năng: Nghe – nói - 
đọc – viết cho học sinh. Tập đọc là một phân môn của chương trình Tiếng 
Việt bậc tiểu học. Đây là phân môn có vị trí đặc biệt trong chương trình vì nó 
đảm nhiệm việc hình thành và phát triển kỹ năng đọc, một kỹ năng quan trọng 
hàng đầu của học sinh ở bậc tiểu học đầu tiên. Kỹ năng đọc có nhiều mức độ: 
đọc đúng, đọc nhanh (lưu loát, trôi chảy), đọc có ý thức (thông hiểu được nội 
dung những điều mình đọc hay còn gọi là đọc hiểu) và đọc diễn cảm. Khi học 
sinh đọc tốt, viết tốt thì các em mới có thể tiếp thu các môn học khác một 
cách chắc chắn. Từ đó học sinh mới hoàn thành được năng lực giao tiếp của 
mình. Những kỹ năng này không phải tự nhiên mà có. Nhà trường phải từng 
bước hình thành và trường tiểu học nhận nhiệm vụ đặt viên gạch đầu tiên. 
Nên việc dạy học phải có định hướng, có kế hoạch từ lớp 1 đến lớp 5.
 Đặc biệt đối với học sinh lớp 1, việc dạy đọc cho các em thật vô cùng 
quan trọng bởi các em có độc tốt được ở lớp 1 thì học các lớp tiếp theo các em 
mới năm được những yêu cầu cao hơn trong môn Tiếng Việt. Việc dạy đọc ở 
lớp 1 từ chỗ các em còn phải đọc đánh vần từng tiếng đến việc đọc thông thạo 
được một văn bản. Đó là việc tương đối khó với các em mà mục tiêu của giờ 
dạy Tiếng việt là hướng đến giáo dục học sinh yêu tiếng Việt bằng cách nêu 
bật sức mạnh biểu đạt của Tiếng Việt, sự giàu đẹp của âm thanh, sự phong 
phú của ngữ điệu trong việc biểu đạt nội dung. Thế nhưng hiện nay ở trường 
Tiểu học, mặt âm thanh của ngôn ngữ, đặc biệt ngữ điệu chưa được chú ý 
đúng mức. Đó là lí do cho học sinh của chúng ta đọc và nói chưa tốt. Đó cũng 
là lý do khiến nhiều trường hợp học sinh không hiểu đúng văn bản được đọc.
 Ở lớp 1 các em được tập đọc thành thạo, đọc đúng, đọc trôi chảy thì khi 
lên các lớp trên các em sẽ học vững vàng, nắm chắc kiến thức và các em sẽ 
ham học, tích cực trong học tập để đạt được kết quả tốt hơn học tập, góp phần 
hình thành nhân cách con người Việt Nam hiện đại, phát triển toàn diện về 
mọi mặt Đức - Trí - Thể - Mĩ cho học sinh. Chính vì những lý do trên mà tôi 
chọn đề tài “Một số biện pháp rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp 1”. đầy đủ sách vở, đồ dùng học tập,thường xuyên nhắc nhở và tạo điều kiện tốt 
cho con em mình đến lớp cũng như học tập ở nhà.
 b/ Khó khăn
 Tuy nhiên, cùng với những thuận lợi trên, bản thân tôi vẫn còn gặp 
một số khó khăn sau:
 + Giáo viên:
 - Tranh ảnh minh họa có sẵn cho môn Tiếng Việt còn hạn chế. Giáo viên 
còn tự làm thêm đồ dùng dạy học để tạo sinh động cho tiết dạy, nên còn mất 
thời gian đầu tư.
 - Đèn chiếu , máy tính trang bị trong phòng học chưa có , mỗi lần dạy 
phải kết nối mất nhiều thời gian .
 + Học sinh:
 - Trình độ học sinh trong lớp không đồng đều. Bên cạnh những em phát 
triển, học tốt, tiếp thu nhanh vẫn còn một số em yếu về thể chất, bé nhỏ hơn 
so với các bạn bình thường kèm theo phát triển chậm về trí nhớ, học trước 
quên sau, chậm tiến.
 - Do đặc trưng vùng miền nên các em chủ yếu phát âm sai l / n ; r/d ; 
ch/tr...
 - Đa số phụ huynh trong lớp là dân làm vườn không , chưa quan tâm 
đúng mứcđến việc học tập của con em mình, chưa tạo điều kiện tốt để kèm 
cặp con em mình học bài, đọc bài ở nhà.
 - Một số trường hợp học sinh do nhà ở xa phải tam trú trên địa bàn nơi 
trường đóng , cha mẹ các em khoán trắng việc học hành cho người trông nom 
và nhà trường nên phần nào cũng ảnh hưởng đến việc học tập của các em .
 Một trong những lý do dễ thấy là vì các em còn quá nhỏ, chưa ý thức tự 
giác, cố gắng trong học tập. Vì vậy giáo viên chúng ta phải biết được đặc 
điểm tình hình của từng đối tượng, khả năng tiếp thu của từng em để phát huy 
tính tích cực ham học cho học sinh. Tổ chức tiết dạy sao cho các em luôn cảm 
thấy nhẹ nhàng, vui tươi và các em sẽ thích học.
 Xuất phát từ cơ sở lý luận và trước thực tế trên của lớp thì với yêu cầu 
của chương trình môn Tiếng Việt tiểu học. Tôi có băn khoăn suy nghĩ là phải 
làm gì và làm như thế nào để các em phát âm chuẩn, đọc đúng, đọc diễn cảm.
 5. Nội dung:
 5.1 Chương trình sách giáo khoa:
 Chương trình Tập đọc trong sách Tiếng Việt 1 chỉ có 13 tuần bao gồm cả 
nội dung ôn tập và thi. Bên cạnh đó học sinh vừa chuyển từ phần vần sang tập 
đọc thì mục tiêu chính là giúp các em nhận diện chữ để đọc đúng, đọc trôi 
chảy lưu loát, biết ngắt nghỉ hơi hợp lý, lưu ý cả cách đọc nhấn giọng.
 Về tốc độ âm lượng đọc: Mỗi bài Tập đọc có tốc độ âm lượng đọc 
khác nhau. Như vậy người giáo viên cần phải nắm chắc các kỹ thuật trên để 
làm mẫu cho học sinh và hướng dẫn truyền thụ lại cho các em những kỹ thuật 
đó. Khi học sinh đã hoàn chỉnh các kỹ thuật trên cũng chính là đã đạt đỉnh cao 
của phương pháp rèn đọc cho học sinh Tiểu học. con em mình, đồng thời hướng dẫn phụ huynh cơ bản về cách đọc, các 
phát âm chữ cái, cách đánh vần vần, đánh vần tiếng để phụ huynh nắm rõ 
cách dạy học hỗ trợ giáo viên kèm cặp con em mình ở nhà.
 -Tham mưu với nhà trường để giáo viên có đủ tài liệu tham khảo, đồ 
dùng dạy học, tự làm thêm tranh ảnh mô hình, sưu tầm thêm những mô hình 
vật thật để tiết dạy vui, sinh động. Đồng thời tăng cường vận dụng Ứng dụng 
công nghệ thong tin trong dạy học , qua những hình ảnh động cũng góp phần 
gây hứng thú giúp các em hưng phấn trong luyện đọc .
 -Xây dựng đôi bạn học giỏi – yếu kèm cặp nhau.
 - Giáo viên có thể cho học sinh học yếu, đọc yếu để ngồi gần với nột học 
sinh đọc giỏi. Bạn giỏi sẽ giúp bạn yếu khi chỉ chữ đọc bài, giúp bạn đánh 
vần, đọc tiếng và giúp bạn trong thao tác cài chữ để ghép vần, ghép tiếng.
 Bồi dưỡng, luyện tập cho học sinh sau khi phân loại học sinh ngay từ 
đầu năm
 giáo viên nên nắm vững trình độ học sinh trong lớp mình theo các mức 
giỏi, khá, trung bình, yếu.Đối với các học sinh trung bình yếu. Các em chưa 
nhìn được mặt chữ cái hoặc chưa biết đủ 24 chữ cái đơn giản, giáo viên nên 
dành nhiều thời gian để bồi dưỡng cho đối tượng này, ôn và dạy lại 24 chữ cái 
cơ bản cho các em bắt đầu học lại những nét cơ bản.
 *Phần học các nét cơ bản:
 Giáo viên nên dạy thật kỹ, thật tỷ mỉ tên gọi và cách viết các nét cơ bản. 
Để cho học sinh dễ hiểu, dễ nhớ những nét chữ này tôi phân theo cấu tạo các 
nét có tên gọi và cấu tạo gần giống nhau thành từng nhóm để học sinh dễ 
nhận biết và so sánh.Dựa vào các nét cơ bản này mà học sinh phân biệt được 
chữ cái, kể cả những chữ cái có hình dáng cấu tạo giống nhau.
 * Phần học âm:
 Sau khi cho học sinh học thật thuộc tên gọi và cấu tạo các nét chữ cơ bản 
một cách vững vàng thì tiếp theo là phần học chữ cái.
 Giai đoạn này vô cùng quan trọng. Trẻ có nắm chắc từng chữ cái thì mới 
có thể ghép các được các chữ cái với nhau để tạo thành vần, thành tiếng, ghép 
các tiếng đơn lại với nhau tạo thành từ, thành câu. 
 Lúc này tôi dạy cho các em nhận diện, phân tích từng nét trong từng con 
chữ cái và nếu chữ cái đó có cùng tên mà lại có nhiều kiểu viết – kiểu in khác 
nhau hay gặp trong sách báo như chữ a, chữ g thi tôi phân tích cho học sinh 
hiểu và nhận biết đó cũng là chữ a hay chữ g để khi gặp kiểu chữ đó được in 
trong sách báo trẻ dễ hiểu, dễ đọc không bị lúng túng.
 VD: 
 Âm - a, g – 
+ Âm g gồm 2 nét: Nét cong kín nằm bên trái và nét sổ thẳng nằm bên phải.
 a cũng có 2 nét : Nét cong kín bên trái và nét móc ngược bên phải.
+ Âm a gồm 2 nét : Nét cong kín và nét cong phải.
 g gồm 2 nét : Nét cong kín và nét khuyết dưới 2/ Đánh vần vần ay : 
 • Hướng dẫn học sinh: âm a đứng trước , ta đọc a trước, âm y 
đứng sau ta đọc y sau : a_ y _ ay .
 • Đọc trơn vần: : ay
 Kết hợp dùng bộ chữ học vần tiếng vần dành cho học sinh sử dụng bộ 
thực hành ghép chữ dành cho lớp Một để học sinh tìm và ghép âm , thanh , 
tiếng mới trong mỗi bài Học vần .
 Ví dụ : Yêu cầu các em: chọn đúng hai âm : a và y
 Ghép đúng vị trí : a trước y sau
 Nếu các em đã ghép đúng giáo viên hướng dẫn cách đánh vần và đọc 
trơn vần như trên các em sẽ nhận biết và đọc được vần ay
 Với cách dạy phân tích, nhận diện và ghép vần vào bảng cài học sinh 
như thế , nếu được áp dụng thường xuyên cho mỗi tiết học vần chúng ta sẽ tạo 
cho các em kỹ năng phân tích, nhận diện và ghép vần dẫn đến đánh vần, đọc 
trơn vần một cách dễ dàng và thành thạo giúp các em học phần vần đạt hiệu 
quả tốt. Trong các bài dạy vần, sách giáo khoaTiếng việt 1 có kèm theo các 
từ khóa, từ ứng dụng và các câu thơ, câu văn ngắn để học sinh luyện 
đọc.Muốn cho học sinh đọc được các từ và câu 
 ứng dụng trong bài giáo viên cho học sinh nắm chắc các vần sau đó cho 
các em ghép chữ cái đầu với vần vừa học để đọc tiếng, đọc từ của bài.
 Luôn đưa ra cho học sinh so sánh vần đã học với vần hôm nay 
học để học sinh so sánh .
 VD: dạy vần ay cho học sinh so sánh với vần ai
 ai i
 a
 ay y
 Từ đây học sinh tìm ra âm giống nhau âm nào, khác nhau âm nào? Rồi 
so sánh cả hai vần trong bài học: ay / ây.Từ đây giúp các em có kỹ năng so 
sánh đối chiếu và khắc sâu các vần trong phân môn Học vần .
 VD: dạy vần ay có từ máy bay .
 Sau khi học sinh nắm vững vần ay, nhìn và đọc được vần ay một cách 
chắc chắn. Giáo viên đưa ra từ máy bay và giúp học sinh nhận biết: Âm gì 
đứng trước vần ay (âm b) thanh gì ở trên vần ay(thanh ngang) vậy ta có thể 
ghép và đánh vần : bờ - ay– bay- bay , đọc trơn : bay , ghép từ :máy bay .
 Giáo viên có thể sử dụng tranh minh họa để cho học sinh hứng thú được 
nhìn vào tranh ảnh sinh động hoặc mẫu vật thật để gợi trí tò mò, ham học hỏi 
của học sinh giúp các em chủ động trong giờ học.
 */ Phần tập đọc:
 - Đây là giai đoạn khó khăn đối với học sinh. Nhất là đối tượng học sinh 
trung bình, yếu. Học sinh khá- giỏi đã vững phần chữ cái, nắm vững phần vần - Sưu tầm thêm một số tranh ảnh, mẫu vật có liên qua đến bài dạy.
 - Ứng dụng các hình ảnh bài giảng điện tử giảng dạy trong tiết học .
 - Sử dụng thường xuyên bộ đồ dùng học Tiếng Việt của học sinh và giáo 
viên.
 d/ Phương pháp và hình thứ dạy học môn Tiếng Việt lớp 1:
 Có rất nhiều phương pháp và hình thức để áp dụng cho một tiết dạy 
nhắm đạt được một kết quả tốt cho giờ học. Tuy nhiên không một phương 
pháp nào được coi là vạn năng , giáo viên nên sử dụng linh hoạt và đồng loạt 
nhiều phương pháp để giúp học sinh của mình đọc ngày càng tốt hơn. Sau đây 
là một số phương pháp thường được áp dụng trong giờ học :
 * Phương pháptrực quan 
 Phương pháp này đòi hỏi học sinh được quan sát vật thật,tranh ảnh tự 
nhiên , hay việc làm mẫu của giáo viên như cho các em nghe cô phát âm mẫu, 
đánh vần mẫu, đọc mẫu .
 Ví dụ : Khi dạy học sinh học âm l , giáo viên phải phát âm mẫu và cho 
học sinh quan sát khuôn miêng để các em ‘’bắt chước ‘’ phát âm mới đúng 
được . 
 * Phương pháp đàm thoại, vấn đáp
 Giáo viên đưa ra nhiều câu hỏi để học sinh trả lời nhằm phát hiện 
sự hiểu biết của các em hoặc để gợi mở giúp các em phát hiện cách đọc.
 VD: - Chữ này là chữ gì? ( chữ a, o,b,c, d.)
 - Âm ch đứng trước, vần anh đứng sau, em đánh vần thế nào?( chờ- anh- 
 chanh). Khi sử dụng phương pháp này, giáo viên nên dùng ngôn ngữ dễ 
nghe, nhẹ nhàng, tránh cáu gắt khi các em chậm nhớ, chậm hiểu.Hãy ôn tồn 
dẫn dắt học sinh từng bước một để dạy các em đọc từng chữ, từng tiếng, từng 
câu trong mỗi ngày.
 * Phương pháp quan sát, động viên khen thưởng học sinh.
 Trong tiết dạy tôi thường chú ý đến học sinh ít nói, thụ động, học sinh 
đọc chậm, đọc yếu để gọi các em thường xuyên đọc bài . Đối với học sinh 
giỏi – khá tôi thường khích lệ, khen ngợi để các em phấn khởi hơn.Còn đối 
với học sinh trung bình – yếu tôi nhẹ nhàng an ủi động viên. Trong tiết dạy 
tập đọc, sau khi cho cả lớp đọc xong, tôi mời các em đọc yếu, trung bình lên 
bàn giáo viên để cùng đọc bài với cô.Tôi giành nhiều thời gian cho đối tượng 
này hơn. Cùng đọc bài với các em trong giờ ra chơi ( nhưng vẫn để cho các 
em có thời gian thư giãn, nghỉ ngơi). Khi các em có biểu hiện tiến bộ tôi 
thường khen thưởng các em bằng những phần quà nhỏ như cuốn vở, viên 
phấn màu, cây bút đẹp vv để các em thích thú và cố gắng hơn.
 * Phương pháp học nhóm
 Ngay từ đầu năm học qua khảo sát , phân loại học sinh trong lớp tôi 
bố trí cho học sinh giỏi kèm học sinh yếu, em học tốt ngồi gần em yếu để giúp 
bạn học tập, yêu tiên những học sinh yếu được ngồi ở dãy bàn thứ nhất và thứ 
hai trong lớp. Trong từng giờ học tôi cũng cố gắng gọi các em đọc bài nhiều 
hơn những bàn học sinh khác, gọi đọc theo nhóm đôi ( trong cùng bàn ) để 

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_ren_ki_nang_doc_cho_h.doc