Sáng kiến kinh nghiệm Một số kinh nghiệm giúp giáo viên Khối 1 nâng cao chất lượng dạy môn Tiếng Việt
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số kinh nghiệm giúp giáo viên Khối 1 nâng cao chất lượng dạy môn Tiếng Việt", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số kinh nghiệm giúp giáo viên Khối 1 nâng cao chất lượng dạy môn Tiếng Việt
Sáng kiến kinh nghiệm Một số kinh nghiệm giúp giáo viên khối 1 nâng cao chất lượng dạy môn Tiếng Việt Qua quá trình chỉ đạo và theo dõi tôi nhận thấy chất lượng dạy môn Tiếng Việt của khối lớp Một đạt hiệu quả chưa cao có rất nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chủ yếu mà một số học sinh lớp Một đến cuối năm đọc, viết vẫn còn chậm tập trung vào những nguyên nhân sau đây: 1. Đối với giáo viên: Vận dụng phương pháp dạy học chưa phù hợp với từng đối tượng học sinh nên chất lượng chưa cao, một số giáo viên chưa nhiệt tình giúp đỡ học sinh. 2. Đối với học sinh: Bị bệnh lý bẩm sinh, học hay quên; lười học; do hoàn cảnh gia đình. 3. Đối với phụ huynh: Một số gia đình không quan tâm đến con em mình, phó mặc khoán trắng cho nhà trường. III. NHỮNG GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC KHÓ KHÃN: Học sinh lớp Một khi mới vào trường tiểu học các em còn rất bỡ ngỡ và mọi thứ còn rất mới lạ, trong thời gian đầu các em được học những gì và được dạy gì phụ thuộc phần lớn vào thầy cô ở trường nên để dạy cho các em các môn học nói chung và môn Tiếng Việt nói riêng có hiệu quả ngay từ năm đầu cấp đòi hỏi người giáo viên phải luôn tìm hiểu và nghiên cứu những phương pháp dạy học cho phù hợp với từng đối tượng học sinh, hiểu được hoàn cảnh của các em, hiểu được tâm lý các em và đòi hỏi phải có sự nhiệt tình tâm huyết của người thầy Chính vì những lý do đó mà ngay từ đầu tôi yêu cầu giáo viên mỗi lớp phân loại học sinh bắt đầu từ cuối tháng 9 cụ thể như sau: *Tổng số học sinh toàn khối: 272 em ■ Học sinh đọc, viết theo chuẩn: 150 em ■ Học sinh đọc, viết chậm so với chuẩn: 100 em ■ Học sinh chưa đọc, viết được, một số em chưa biết cầm bút: 22 em. Từ những số liệu về tình hình học sinh mà các giáo viên khối Một báo lại, -Ớ lứa tuổi học sinh tiểu học nhất là học sinh lớp Một khả năng tư duy trừu tượng kém, phần lớn các em phải dựa trên những mô hình vật thật, tranh ảnh, do vậy trong các giờ học việc yêu cầu giáo viên sử dụng đồ dùng dạy học là không thể thiếu kể cả đồ dùng do giáo viên tự làm, đồ dùng dạy học là phương tiện chuyển tải thông tin và là nội dung truyền thụ kiến thức giáo dục tư cách, rèn luyện kỹ năng thực hành cho học sinh, nó có tác dụng điều khiển hoạt động của học sinh từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, kích thích hứng thú cho học sinh học tập. Có nhà giáo dục trẻ cho rằng trẻ không sợ học mà chỉ sợ những tiết học đơn điệu nhàm chán vì thế đồ dùng dạy học có tác dụng rất lớn trong quá trình dạy môn Tiếng Việt cho học sinh, nhất là các em học sinh học chậm. Ví dụ: Ớ những bài học về vần. Chẳng hạn như Bài 41 trang 86 Sách giáo khoa Tiếng Việt 1 Tập 1: Dùng trang vẽ ( hoặc vật thật) trái lựu; Tranh con hươu sao để học sinh quan sát và tìm ra từ khoá sau khi các em đã nhận diện vần ưu và ươu ở phần đầu tiết học. Từ những hình ảnh như thế các em sẽ dễ nhớ và nhớ chính xác hơn các vần và các từ được học bởi các em có sự liên tưởng từ vật thật đến vần của bài học. Như vậy dùng tranh, ảnh, vật thật trong các giờ Tiếng Việt giúp học sinh nhớ vần và từ tốt hơn. -Ngoài ra dùng tranh, ảnh có vai trò rất lớn trong phần luyện nói ở các tiết tập đọc môn Tiếng Việt lớp 1 - học kì II. Ví dụ: Bài Chuyện ở lớp - Trang 100 Sách giáo khoa Tiếng Việt 1 tập II - Phần luyện nói: Tìm tiếng ngoài bài: Có vần uôc. Giáo viên treo tranh một người đang tuốt lúa - Giáo viên hỏi nội dung bức tranh, sau đó cho các em nói câu có vần uôt, động viên các em học chậm nói trước, nhìn vào tranh tự các em có thể nói được như: Mẹ (cô, chị, dì) đang tuốt lúa hoặc là máy tuốt lúa. Dùng tranh, ảnh trong các phần này tôi nghĩ rằng có tác dụng rất lớn đối với các em học chậm, các em vừa nói được câu có vần cần tìm và còn hiểu được nghĩa của câu đó. Tuy nhiên các em học sinh khá, giỏi nói các câu khác cũng có vần uôt như con chuột, sáng suốt mà không cần dựa vào tranh. Như vậy rõ ràng trong cùng một giờ học giáo viên biết vận dụng khéo léo tranh, ảnh thì vừa phát huy được tính sáng tạo chủ động cho học sinh khá giỏi lại Có lẽ nguyên nhân này là nguyên nhân lớn làm giảm chất lượng học sinh, qua dự giờ ở tất cả các lớp khối Một, những người làm quản lý chúng tôi thực sự băn khoăn và trăn trở bởi số học sinh này không phải chỉ có 1 hay 2 em, nên tôi nghĩ cần có kế hoạch cụ thể để giúp giáo viên khối Một dạy những học sinh này như thế nào cho đạt kết quả tốt, không phải trong một tháng mà trong cả một năm học, có khi cả trong hè. 2.1 Đối với học sinh nhận thức chậm, hay quên. -Yêu cầu giáo viên chủ nhiệm phải phân loại và nắm được số lượng dạng học sinh này, giáo viên cần có một phương pháp dạy và dạy một lượng kiến thức phù hợp cho các em. Tuy nhiên với học sinh cả lớp giáo viên vẫn lấy chuẩn để làm mục tiêu phấn đấu, còn những em này nếu dạy chung theo chuẩn của chương trình đề ra thì các em không thể theo kịp, vì thế tôi yêu cầu giáo viên trước hết sắp xếp chỗ ngồi cho các em phù hợp và có tác dụng thúc đẩy. Ví du: Cho các em ngồi gần các bạn học tốt để các em được sự giúp đỡ từ bạn, được học tập từ bạn như các em tập đọc theo bạn, nhắc lại câu của bạn nói, được các bạn nhắc nhở luôn với hình thức này là điều kiện rất tốt cho các em hoạt động nhóm đôi, tránh cho các em cùng học chậm ngồi với nhau và ngồi cuối cùng của lớp, cần tạo điều kiện cho các em học tốt để các em biết phát huy những ưu điểm của bạn -Dạy các em lượng kiến thức phù hợp như: về viết chỉ yêu cầu các em viết một số dòng nếu như những học sinh bình thường có thể viết nhiều dòng trở lên. Ví du: Tiết tập chép bài: Mèo con đi học - Trang 105 Tiếng Việt II, yêu cầu chuẩn học sinh chép 8 dòng thơ đầu, nhưng đối với học sinh chậm chỉ yêu cầu các em chép 4 dòng, bên cạnh đó giáo viên phải theo dõi sát các em, uốn nắn và hướng dẫn cụ thể cho các em. -Về đọc tăng cường gọi các em nhắc lại nhiều lần nếu là vần, đọc nhiều lần nếu là câu ứng dụng hay một đoạn văn, đoạn thơ. -Ngoài ra yêu cầu giáo viên cần có kế hoạch về thời gian để kèm cặp, phụ đạo học sinh này, mỗi lớp phải sắp xếp thời gian cho phù hợp và phụ đạo cho học sinh có chất lượng, cụ thể các tiết ôn tập buổi chiều các em học giỏi, khá tự làm tập các loại. Một vài lần kiểm tra, tôi thấy em Vũ cũng đã tiến bộ nhiều, em vui hơn khi tham gia chơi cùng bạn bè và không còn ngồi buồn nữa. *Tóm lại: Đối với học sinh có hoàn cảnh đặc biệt, giáo viên cần quan tâm, giúp đỡ, động viên các em giúp các em tự tin trong học tập và hoà nhập với cộng đồng, cần giúp đỡ các em cả vật chất và tinh thần 3. Giải pháp thứ 3: Làm thế nào để phụ huynh quan tâm tới con em mình không khoán trắng cho nhà trường và thấy được sự phối hợp giữa nhà trường và gia dình là rất cần thiết. Từ thực tế cho thấy nhiều cha mẹ học sinh cho con đến trường là xong nhiệm vụ còn trách nhiệm dạy, giáo dục con mình là phần thầy cô giáo, có những em bị bệnh nhưng cha mẹ không hề biết vẫn cho con đi học có khi các em đi học cả buổi mà vẫn chưa ăn gì, ngay cả khi các em bị ốm mà phụ huynh cũng không quan tâm tới các em. Với các trường hợp này đòi hỏi giáo viên cần phải thường xuyên liên lạc với phụ huynh, trao đổi với phụ huynh để họ hiểu rằng kết quả học tập của các em có tốt là phải có sự phối hợp nhịp nhàng giữa gia đình và nhà trường. Yêu cầu quan tâm tối thiểu như cha mẹ các em cần kiểm tra bài vở của các em sau mỗi buổi học ở trường xem con mình đã học những môn nào, các em có ghi chép đủ không, giúp các em soạn sách vở trong thời gian đầu và theo dõi kiểm tra nhắc nhở các em việc soạn sách vở khi cho các em đã tự làm, hướng dẫn các em đọc bài nhiều lần ở nhà, chuẩn bị cho bài mới. Còn giáo viên ngoài họp phụ huynh theo kế hoạch chỉ đạo định kì chung 3 lần/ năm học, phải thường xuyên liên lạc với phụ huynh học sinh bằng phiếu liên lạc hay trực tiếp trao đổi với phụ huynh khi cần thiết. Bên cạnh đó giáo viên cần phối hợp với hội phụ huynh của lớp nhờ hội trưởng của lớp giúp đỡ. Ví dụ: Lớp 1/5 của có 4 em thường xuyên quên mang tập vở, không học bài ở nhà, lần họp phụ huynh đầu tiên cha mẹ của các em không đi. Sau khi nghe giáo viên chủ nhiệm báo lại tình hình như vậy, tôi đã bàn với Ban giám hiệu nhà trường giúp đỡ giáo viên tìm ra nguyên nhân và biện pháp giúp giáo viên dạy cho tốt các em học sinh đó như liên lạc trực tiếp với phụ huynh, đến tận nhà thông báo tình hình học tập của các em và nhờ phụ huynh tiếp tay với nhà trường, bản thân chủ động bàn bạc với Ban giám hiệu nhà trường với các thành viên trong tổ khối tìm giải pháp hợp lí, sẵn sàng nhiệt tình giúp đỡ các em . * Học sinh có sự chuyển biến tích cực trong học tập, tự giác học và có rất nhiều cố gắng nhất là các em có hoàn cảnh đặc biệt, các em có bệnh lí đồng thời các em còn cảm nhận được sự gần gũi, yêu thương của thầy cô, biết hoà đồng cùng các bạn, biết chia sẻ những vui, buồn, khó khăn với bạn bè, thầy cô. Các em tự tin trong học tập và thực sự thấy mỗi ngày đến trường là một ngày vui. * Làm nền móng tốt cho các em học lên lớp trên, tạo đà để chất lượng học tập ngày một tốt hơn. * Một số phụ huynh nhận thấy rõ vai trò của gia đình trong quá trình giáo dục con em mình, nhiệt tình chỉ bảo, quan tâm tới các em nhiều hơn, thường xuyên giữ mối liên hệ với nhà trường, hiểu được tầm quan trọng của sự kết hợp giữa nhà trường và gia đình. BÀI HỌC KINH NGHIỆM Với kết quả đạt được ở trên, bản thân tôi rút ra bài học sau: * Người quản lí trong nhà trường phải chuyên tâm, say sưa, nhiệt tình trong công việc, không ngừng học tập để nâng cao kiến thức và năng lực lãnh đạo trong việc quản lí các hoạt động giáo dục trong nhà trường. * Đoàn kết, thống nhất từ Ban giám hiệu cho đến các giáo viên. * Có kế hoạch chỉ đạo và thường xuyên giúp đỡ giáo viên trong quá trình giải quyết những khó khăn. * Có kiểm tra theo dõi, đánh giá rút kinh nghiệm sau từng đợt kiểm tra. * Dự giờ, thăm lớp đột xuất để đánh giá giáo viên trong quá trình giảng dạy và nắm được tình hình học tập của học sinh. * Cần mềm mỏng, khéo léo, động viên giáo viên trong giảng dạy, nhưng cương quyết trong quá trình chỉ đạo. * Biết lắng nghe và thu nhận thông tin phản hồi từ giáo viên trong quá trình triển khai biện pháp. * Giữ mối liên hệ tốt giữa nhà trường - gia đình - xã hội. Người thực hiện: Lê Thị Xuân Huệ Chức vụ: Phó Hiệu Trưởng Đơn vị: Trường Tiểu học Thị trấn Kiên Lương 1 Kiên Lương, tháng 5 năm 2007
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_kinh_nghiem_giup_giao_vien_khoi.docx