Sáng kiến kinh nghiệm Một số trò chơi học tập rèn kĩ năng đọc cho học sinh Lớp 1 là người Vân Kiều

doc 13 trang sklop1 22/01/2024 3430
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số trò chơi học tập rèn kĩ năng đọc cho học sinh Lớp 1 là người Vân Kiều", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số trò chơi học tập rèn kĩ năng đọc cho học sinh Lớp 1 là người Vân Kiều

Sáng kiến kinh nghiệm Một số trò chơi học tập rèn kĩ năng đọc cho học sinh Lớp 1 là người Vân Kiều
 1. Phần mở đầu
1.1. Lí do chọn SKKN
 Trong hệ thống giáo dục quốc dân, giáo dục Tiểu học đóng vai trò quan 
trọng, được xem là những viên gạch đầu tiên trong ngôi nhà tri thức. Trong đó, lớp 
1 được xem là cơ sở, là nền tảng ban đầu của HS cho các lớp học, bậc học tiếp 
theo.
 Hiện nay, trong công cuộc đổi mới và thực hiện xã hội hóa giáo dục, nhà 
nước đã quan tâm và có nhiều chính sách đầu tư nhằm nâng cao chất lượng giáo 
dục nói chung và giáo dục Tiểu học nói riêng. Song trong quá trình thực hiện giảng 
dạy vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn, còn tình trạng HS ngồi nhầm chỗ, HS hạn chế 
trong việc tiếp thu kiến thức; Đặc biệt là với những HS ở những vùng khó khăn, có 
người dân tộc thiểu số như xã Trường Sơn. Các em HS Vân Kiều học tiếng Việt 
như ngôn ngữ thứ hai, do đó các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết của các em có nhiều 
hạn chế. Việc tiếp cận các kiến thức, kĩ năng mới của HS lớp 1 là người Vân kiều 
ở trường Tiểu học còn gặp nhiều khó khăn và bỡ ngỡ vì vậy sẽ không tránh khỏi 
có một số HS bị “lỡ nhịp” so với các HS người Kinh. Mà với lớp 1, điều quan 
trọng và căn bản nhất là HS phải biết đọc, biết viết. Có đọc được mới viết được, 
mới hiểu được nội dung văn bản và học tốt các môn học khác.
 Để phát huy tính tích cực của HS, trong chương trình Tiểu học hiện nay đã 
triển khai nghiêm túc việc thực hiện mô hình trường học mới và thay đổi phương 
pháp dạy học, trong đó việc đan xen các trò chơi học tập (TCHT) trong quá trình 
dạy học là rất bổ ích và phù hợp với đặc điểm tâm lí lứa tuổi HS lớp 1, giúp các em 
“học mà chơi, chơi mà học”.
 Xuất phát từ những lí do trên và trải nghiệm trong quá trình giảng dạy tôi 
mạnh dạn chọn sáng kiến kinh nghiệm “Một số trò chơi học tập rèn kĩ năng đọc 
cho HS lớp 1 là người Vân Kiều” để giúp các em HS lớp 1 là người Vân Kiều rèn 
kĩ năng đọc nhằm góp phần nâng cao chất lượng học tập lớp mà tôi được phân 
công giảng dạy tại trường PTDTBT Tiểu học Trường Sơn nói riêng và chất lượng 
toàn trường nói chung.
1.2. Điểm mới của SKKN
 Đã có nhiều tác giả nghiên cứu với các đề tài, báo cáo về TCHT với môn 
Tiếng Việt lớp 1, như:
 - “Trò chơi trong giờ học Tiếng Việt ở lớp 1” của Phạm Tiến Tĩnh.
 - “Qua trò chơi giúp HS nắm chắc các vần lớp 1” của Trần Thị Xá.
 - Chuyên đề “Một số biện pháp để dạy học tốt môn TV1-CGD” của trường 
PTCS Yên Thanh.
 1 với các bạn, với thầy cô giáo và không hợp tác trong việc học, chỉ biết gục mặt 
xuống bàn khi có GV hoặc bạn cùng lớp hướng dẫn, giúp đỡ.
 - HS còn lạ lẫm, có HS chưa chuẩn bị tâm lí sẵn sàng cho các hoạt động học ở 
lớp 1.
 - Mặc dù được tổ chức phụ đạo vào một số buổi học, nhưng những HS hạn 
chế thường ở nhà, không tham gia.
 - Sự quan tâm của một số gia đình đối với việc học của con em mình chưa 
đúng mức, thậm chí có HS đi học không có đồ dùng học tập, phụ huynh cho phép 
con em nghỉ học tùy tiện,
 Theo tôi, nguyên nhân của những khó khăn trên là:
 - Ở bậc học Mầm non, HS ít khi đến trường nên chưa quen với môi trường 
trường học. Hiện nay, việc nhận biết bảng chữ cái không còn là nội dung bắt buộc 
cần phải đạt ở mầm non nữa, vì thế phần đa HS chưa nắm các chữ cái.
 - Các em HS giao tiếp với người thân và mọi người xung quanh chủ yếu bằng 
tiếng Vân Kiều nên nhiều trường hợp lên học lớp 1 mà HS vẫn chưa biết tiếng 
Việt.
 - Có sự chênh lệch về năng lực giữa các HS trong cùng một lớp.
 - Nhận thức của một số bậc phụ huynh còn hạn chế, chưa ý thức đúng tầm 
quan trọng của việc học đối với con em, nếu có thì cũng chỉ là hời hợt. Hơn nữa, 
do đặc điểm của vùng rừng núi với công việc chủ yếu là làm ruộng, làm nương rẫy, 
đi rừng, nên một số phụ huynh chưa có nhiều thời gian để quan tâm đến con cái. 
 - Do suy nghĩ thiếu đầy đủ của phụ huynh: HS đi học thì coi như phó mặc, gửi 
gắm tất cả cho GV.
 - Do tâm lí của chính bản thân HS: thấy lạ (đối với trường, lớp, bạn bè, thầy 
cô), còn rụt rè, ngại giao tiếp, sợ người lạ, cảm thấy tủi thân, lạc lõng, (như em 
Hồ Thị Mỹ, Hồ Thị Hằng).
 - Kinh tế của người Vân Kiều còn khó khăn nên khi đến lớp HS Vân Kiều 
không được đảm bảo về vật chất lẫn tinh thần như các HS cùng lớp, mặc dù đó là 
những cái nhỏ nhặt, bình thường nhất như: cái bút, cặp sách, áo quần, dép giày, đồ 
ăn,
 Qua điều tra sự nắm bắt, nhận diện bảng các chữ cái trước khi bước vào lớp 1, 
tôi được số liệu cụ thể như sau:
 Tổng số Nắm hết chữ Tỉ lệ Biết 10-15 Tỉ Không biết chữ Tỉ lệ
 HS cái (%) chữ cái lệ cái nào (%)
 (%)
 17 HS 3 17,6 5 29,4 9 53,0
 3 chữ cái thì mới ghép được các âm để tạo thành tiếng, thành vần. Việc này có ý 
nghĩa rất lớn trong việc thực hiện kĩ năng đọc.
 Vận dụng các nét cơ bản đã được học cùng với việc phân tích cấu tạo các chữ 
cái, trong quá trình dạy, tôi vận dụng một số trò chơi học tập để giúp HS nhận biết 
và ghi nhớ các chữ cái. Đó là:
a) Trò chơi: Ghép âm
 - Mục đích: Nắm vững cấu tạo các âm, giúp HS ghi nhớ các âm được học.
 - Chuẩn bị: Bộ đồ dùng dạy Tiếng Việt 1 CNGD.
 - Thời gian tiến hành trò chơi: khoảng 3-5 phút. GV có thể tổ chức trò chơi 
này ở phần ứng dụng của tiết học để củng cố chữ in thường và cách đọc âm được 
học.
 - Cách thực hiện: Dựa vào cấu tạo của các âm đã học, HS dùng các vật liệu có 
ở Bộ đồ dùng dạy Tiếng Việt 1 CNGD để ghép lại với nhau để tạo thành các âm 
theo yêu cầu. 
 Ví dụ: Khi dạy bài âm (nguyên âm, phụ âm) (SGK TV1, trang 19-21)
 Âm /a/ gồm 2 nét: một nét cong kín và một nét sổ thẳng ngắn ghép lại.
 Âm /b/ gồm 2 nét: một nét sổ thẳng dài và một nét cong kín ghép lại.
 Để giúp HS nắm chắc cấu tạo và cách đọc hai âm này, GV tổ chức trò chơi ở 
phần ứng dụng hoặc ở phần khởi động của bài kế tiếp.
 Cách chơi:
 GV: Ghép âm, ghép âm.
 HS: Âm gì, âm gì?
 GV: Âm /a/
 HS: Lấy thanh tròn và thanh thẳng ngắn. Ghép thanh tròn ở bên trái và 
thanh thẳng ngắn ở bên phải, sát liền nhau. Hô to: Âm /a/, âm /a/.
 .
 GV: Ghép âm, ghép âm.
 HS: Âm gì, âm gì?
 GV: Âm /bờ/
 HS: Lấy thanh tròn và thanh thẳng dài. Ghép thanh thẳng dài ở bên trái 
và thanh tròn ở bên phải, sát liền nhau. Hô to: Âm /bờ/, âm /bờ/
 5 - Chuẩn bị: Hình mô phỏng thức ăn của cá (cỏ, rong, giun, ốc, hến,). Mô 
hình con cá.
 Các thẻ âm, vần trong bộ chữ học vần biểu diễn Tiếng Việt lớp 1 công nghệ 
giáo dục có đính nam châm.
 - Thời gian tiến hành trò chơi: Từ 3-5 phút. Có thể tổ chức trong việc 1 (theo 
sách thiết kế Tiếng Việt 1 CGD) ở phần thay nguyên âm để tạo thành tiếng mới; 
Hoặc tổ chức ở phần hoạt động ứng dụng của bài học.
 - Cách thực hiện: Xếp các nguyên âm: a, e, ê, o, ô, ơ, i, u hoặc vần đã học trên 
các nền hình thức ăn của cá; Gắn một phụ âm ở mô hình cá. Sau đó, cho HS chơi 
trò chơi để ghép các phụ âm với nguyên âm hoặc phụ âm với vần để tạo thành các 
tiếng.
 Ví dụ: Khi dạy bài âm /m/ (SGK TV1, trang 42)
 GV vừa thao tác trên mô hình vừa điều khiển HS chơi trò chơi:
 GV: Cá gì, cá gì?
 HS: Cá /mờ/, cá /mờ/
 GV: Cá /mờ/ đớp mồi
 HS: Mồi gì, mồi gì?
 GV: Mồi /e/
 HS: mờ-e-me
Tương tự với các nguyên âm khác: mờ-a-ma, mờ-ê-mê, mờ-i-mi,
 Một số hình ảnh HS chơi trò: Cá đớp mồi
 Hiệu quả: Sau khi chơi trò chơi này, tôi nhận thấy rằng: HS phân biệt được 
nguyên âm, phụ âm (Phụ âm thuộc phần đầu, tương ứng với con cá; nguyên âm 
thuộc phần vần, tương ứng với thức ăn của cá); các em vui vẻ, hứng thú và nắm 
được cách đánh vần để tạo thành tiếng. 
d) Trò chơi: Bánh xe chữ
 - Mục đích: Có thể áp dụng trong dạy âm, vần
 7 Ví dụ: Khi dạy bài âm /r/ (SGK TV1, trang 54) cho HS thi tìm tiếng có âm /r/ 
với trò chơi “Đi chợ”:
 GV: Trò chơi, trò chơi
 HS: Chơi gì, chơi gì?
 GV: Trò chơi đi chợ
 Bạn A đi chợ
 HS: Mua gì, mua gì?
 HS A: Mua rổ
 HS: Rổ-rô-hỏi-rổ (vỗ tay phân tích).
 GV: Trò chơi đi chợ
 HS: Ai đi, ai đi?
 GV: Bạn B đi chợ
 HS: Mua gì, mua gì?
 HS B: Mua rau
 HS: Rau-rờ-au-rau (vỗ tay phân tích).
 .
 Với trò chơi này, HS bắt buộc phải suy nghĩ, vận dụng kiến thức thực tế để 
tìm và nêu được các tiếng có âm, vần đã học. Giúp HS khắc sâu kiến thức, đồng 
thời tạo sự phản ứng nhanh nhẹn, chủ động cho HS.
f) Trò chơi: Truy tìm
 - Mục đích: Có thể áp dụng khi dạy âm và dạy vần
 - Chuẩn bị: phiếu, sách, báo
 - Thời gian tiến hành: Từ 5-7 phút. GV có thể tổ chức vào các tiết ôn luyện 
Tiếng Việt hoặc ở hoạt động ứng dụng trong tiết Tiếng Việt.
 - Cách thực hiện: Khi được học một âm, thì cho HS xác định âm hoặc vần 
theo yêu cầu trong một câu hay một đoạn văn để cho các em quen mặt chữ.
 Ví dụ: Khi học âm /nh/ GV cho HS tìm và gạch chân âm /nh/ có trong mỗi 
tiếng ở một câu hoặc một đoạn văn ở phiếu bài tập, SGK đã chuẩn bị trước. Sau đó 
các em báo cáo kết quả, nếu em nào tìm đúng nhiều từ sẽ chiến thắng, ai tìm được 
ít nhất sẽ bị phạt.
g)Trò chơi: Hái quả bỏ giỏ
 - Mục đích: Củng cố về nhận diện âm, vần
 - Chuẩn bị: rá nhựa/giỏ mây, mô hình quả có ghi âm, vần.
 - Thời gian tiến hành: Khoảng 5-7 phút. Thường tổ chức ở phần khởi động 
hoặc trước khi thực hiện việc 4 (theo sách thiết kế Tiếng Việt 1 CGD).
 9 Nói chung, các trò chơi học tập được vận dụng trong các giờ dạy không phải 
quyết định trực tiếp đến hiệu quả của việc học, nó chỉ là hình thức bổ trợ HS khắc 
sâu kiến thức được học với tâm lí thoải mái theo đúng nghĩa “học mà chơi, chơi 
mà học” phù hợp với đặc điểm lứa tuổi HS Tiểu học nói chung và HS lớp 1 nói 
riêng. Để phát huy hiệu quả của các trong chơi, đòi hỏi GV phải lựa chọn trò chơi 
và hình thức tổ chức phù hợp tùy theo từng môn học, tùy theo nội dung bài học và 
hoạt động học.
 Kết quả: Tài liệu TV1-CGD luôn tạo sự tích cực, chủ động cho HS. Vì vậy, 
nếu chuẩn bị tốt tâm lí thì HS sẽ cảm thấy tự tin, mạnh dạn để tiếp thu các kiến 
thức, kĩ năng khi học. 
 Qua trải nghiệm đề tài trong quá trình dạy học không chỉ giúp HS hạn chế mà 
còn có thể giúp HS lớp tôi có tâm lí thoải mái, nhẹ nhàng, cảm thấy vui thích với 
hoạt động học hơn. 
 Với sáng kiến kinh nghiệm này, sau khi hết phần âm, vần, tôi thấy các HS lớp 
tôi đều nắm vững các âm, vần và đã đọc các bài đọc một cách chắc chắn, chất 
lượng đọc của HS có kết quả đáng mừng: tốc độ đọc trơn của một số em có tiến bộ 
rõ rệt. Các HS đã có sự phối hợp, hợp tác với GV giảng dạy, với bạn bè, Thể 
hiện rõ qua bảng kết quả khảo sát cuối năm học 2017-2018 như sau :
 Tổng số HS Tỉ lệ HS Tỉ HS Tỉ lệ
 HS đọc trơn (%) đọc đánh vần lệ không đọc được (%)
 (%)
 17 HS 14 82,4 3 17,6 0 0
 Như vậy, bên cạnh sự chỉ đạo thường xuyên của chuyên môn, của CBQL, sự 
nỗ lực của GV, gia đình và HS thì đến cuối HK1 kĩ năng đọc của HS có sự chuyển 
biến so với trước. Đa số HS đọc trơn khá tốt, còn 3 HS vẫn đọc đánh vần do một số 
HS có sự hợp tác chưa cao, sự phối hợp của phụ huynh với giáo viên trong công 
tác giáo dục chưa tốt vì vậy hiệu quả như mong muốn. 
3. Phần kết luận
3.1. Ý nghĩa của SKKN
 - Nhận thức rõ tầm quan trọng của việc nâng cao chất lượng HS vùng khó, 
trong công cuộc đổi mới toàn diện giáo dục của ngành.
 - Tạo mặt bằng chung, giảm sự mặc cảm về tâm lí cho HS là người Vân Kiều.
 - Tìm ra biện pháp gần gũi, dễ dàng trong việc chiếm lĩnh kiến thức cho HS.
 - Kĩ năng đọc có vai trò vô cùng quan trọng, là một trong 4 kĩ năng căn bản 
cần đạt của người học. Đọc tốt mới viết tốt, mới hiểu văn bản tốt,
 11

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_tro_choi_hoc_tap_ren_ki_nang_do.doc