Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp dạy học phần âm môn Tiếng Việt Lớp 1 - CGD
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp dạy học phần âm môn Tiếng Việt Lớp 1 - CGD", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp dạy học phần âm môn Tiếng Việt Lớp 1 - CGD
THÔNG TIN VỀ SÁNG KIẾN 1. Tên sáng kiến: ““Phương pháp dạy học phần âm môn Tiếng Việt lớp 1- CGD ” 2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Môn Tiếng Việt 3. Tác giả: Họ và tên: Bùi Thị Huệ Nữ Ngày/tháng/năm sinh: 05/ 09/ 1991 Trình độ chuyên môn: Cao đẳng Tiểu học Chức vụ, đơn vị công tác: Giáo viên Trường Tiểu học Lê Ninh 4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến. Trường Tiểu học Lê Ninh – Kinh Môn – Hải Dương 5. Đơn vị áp dụng sáng kiến: Trường Tiểu học Lê Ninh – Kinh Môn – Hải Dương 6. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến: Nghiên cứu nội dung chương trình dạy Tiếng Việt 1 - CGD - Đối tượng học sinh để lựa chọn biện pháp dạy cho phù hợp. 7. Thời gian áp dụng kinh nghiệm lần đầu: Năm học 2016- 2017 1 Tiếng việt 1- CNGD. Từ những lí do trên nên tôi viết sáng kiến về “Phương pháp dạy học phần âm môn Tiếng Việt lớp 1- CGD ”. 2. Điều kiện, thời gian, đối tượng áp dụng sáng kiến Trong năm học 2016- 2017 đã được áp dụng. Sáng kiến này phù hợp với thực tế, dễ áp dụng và có tính khả thi cao nên học sinh dễ tiếp thu kiến thức. 3. Tóm tắt nội dung sáng kiến Mục đích của đề tài là nghiên cứu và giới thiệu những biện pháp tích cực trong việc dạy phần âm Tiếng Việt 1 - CGD , góp phần giúp học sinh học tốt phần âm. Thông qua các biện pháp này tôi có thể nâng cao kiến thức của bản thân và ý thức được việc nghiên cứu , tìm tòi phương pháp giảng dạy là một nhu cầu cũng như nhiệm vụ của mình. Nhiệm vụ của đề tài là nghiên cứu lí luận , tìm ra những cơ sở lí luận, vai trò vị trí, nhiệm vụ và phương pháp dạy học, hệ thống hóa những vấn đề lí luận có liên quan đến đề tài. Một số biện pháp tích cực trong việc dạy phần âm Tiếng Việt 1 - CGD , góp phần giúp học sinh học tốt phần âm là: - Nắm vững mục tiêu, nội dung chương trình Tiếng Việt lớp 1- CGD - Phân loại đối tượng học sinh: - Giúp học sinh học tốt về âm. - Phân loại hệ thống cấu trúc âm gắn với luật chính tả. - Thường xuyên thay đổi các hình thức học tập cho học sinh. - Tổ chức các hoạt động vui chơi lồng ghép học sinh hệ thống kiến thức và tự chữa lỗI 3. Khẳng định giá trị kết quả đạt được của sáng kiến Áp dụng sáng kiến vào dạy học, học sinh nắm vững phần âm và tạo hứng thú cho các em học môn Tiếng Việt mới. 4. Đề xuất, khuyến nghị thực hiện áp dụng hoặc mở rộng sáng kiến. Tôi rất mong kinh nghiệm được áp dụng trong khối 1 để học sinh nắm bắt kiến thức tốt hơn và nâng cao chất lượng môn học. 3 là thiết kế được những việc làm Giáo dục để học sinh tự mình làm ra sản phẩm học tập cho chính mình. Tiết học vẫn có giáo viên, nhưng không phải để giảng bài, mà để hướng dẫn các em cách tự học. Điều này vừa giúp trẻ hình thành phương pháp tự học, vừa tạo cho trẻ được trải nghiệm thêm kỹ năng làm việc. Nếu học sinh không làm được thì đó là lỗi của người lớn (của thầy cô giáo) chứ không phải của các em. Nhà trường cũng yêu cầu không đem cái chưa đúng của học sinh ra để trừng phạt hay để phân tích trước cả lớp. Em nào đúng thì khen, em nào chưa đúng thì phải giúp để em làm đúng được mới thôi. Trong lớp được phép "ồn" nếu là ồn trong học tập, không nhất thiết phải im lặng mới là ngoan. Làm xong bài trước, ngọ ngoạy... một tí được chấp nhận, miễn là không làm ảnh hưởng đến bạn khác. Cái quan trọng nhất là "Phải dạy trẻ biết suy nghĩ, không phải chỉ biết nghe lời","Phải làm sao cho trẻ suy nghĩ bằng cái đầu của mình, không phải của người khác". Quan hệ thầy - trò trong nhà trường không phải quan hệ bề trên kẻ dưới, mà là thực hiện một sự phân công - hợp tác. Yêu cầu các em học hết sức, chứ không quá sức, phải thiết kế sao cho "Giáo viên không giảng giải, học sinh không cần cố gắng", với nghĩa thầy chỉ là người làm mẫu, hướng dẫn và điều chỉnh, trò cần học hết sức mình nhưng không phải cố quá sức, không bị căng thẳng, không bị áp lực, vừa đủ để thấy việc học thích thú, hấp dẫn. Tiếng Việt là công cụ để học tất cả các môn học và hoạt động GD khác. Nếu không học được Tiếng Việt, khó có thể học tốt những môn học khác. Tiếng Việt công nghệ giáo dục thành công không những cho học sinh người Kinh mà còn ở cả những vùng chỉ toàn học sinh dân tộc thiểu số, cha mẹ chỉ nói tiếng thiểu số, không biết tiếng Việt. Trân trọng trẻ em, hiểu trẻ em để dạy trẻ em, dạy trẻ biết tư duy, biết yêu thương và biết cách tự phục vụ là đích đầu tiên, dung dị và nền tảng nhất trong nhân cách con người mà nhà trường đặt ra. Lần đầu các em tiếp xúc với các môn học, đặc biệt là môn Tiếng việt 1 - CNGD về 5 đầy đủ các lớp tập huấn do ngành, nhà trường và cấp trên tổ chức. Giáo viên nhiệt tình trong công tác, tận tụy với học sinh, luôn tích cực tự học và sáng tạo trong giảng dạy. Cơ sở vật chất thiết bị, sách giáo viên, SGK đầy đủ, phục vụ cho công tác giảng dạy, trường lớp khang trang, thoáng mát, sạch sẽ đáp ứng nhu cầu giảng dạy của giáo viên. Giáo viên không phải soạn bài môn tiếng việt, tiết kiệm được thời gian để giáo viên nghiên cứu bài dạy. Tác phong sư phạm chững chạc, lời nói nhẹ nhàng dễ nghe, luôn gần gũi giúp đỡ học sinh. Về chương trình mới dạy ƯDCN – TV1 rất tốt cho việc triển khai dạy học chương trình này tại đơn vị cụ thể là: Việc sử dụng ký hiệu thay lời nói của giáo viên đỡ mất thời gian. Quy trình đọc, đọc phân tích tiếng rất hiệu quả. Quy trình hướng dẫn tập viết và viết chính tả rất kỹ. * Khó khăn: Là năm đầu tiên áp dụng chương trình SGK mới nên giáo viên cũng gặp khó khăn trong việc nghiên cứu nội dung bài dạy và việc truyền đạt kiến thức trên lớp. Giáo viên chưa chú trọng đến việc dạy học nhằm phát huy tính tích cực lấy học sinh làm trung tâm ở môn Tiếng Việt 1 - CNGD. Hoạt động dạy cho học sinh nhớ máy móc là chủ yếu. Chưa định hướng cách học cho học sinh nên khi tìm hiểu về âm học sinh chưa có cách học chủ động, tích cực và sáng tạo. Từ quá trình triển khai cũng thấy rằng có một số hạn chế của tài liệu TV1- CNGD, theo thiết kế thực hiện, tài liệu có 2 điểm chưa phù hợp: Thứ nhất, theo hướng dẫn thì trong quá trình tổ chức giảng dạy, giáo viên không sử đụng đồ dùng dạy học. Điều này làm hạn chế kết quả nhận thức của học sinh. Thứ hai, chưa có nhiều thời gian cho học sinh rèn kỹ năng nói, đọc nhiều ... Khó khăn khi dạy luật chính tả: ví dụ như đọc âm c viết âm k hoặc là yêu cầu học sinh làm tròn môi âm l học sinh đọc chưa theo yêu cầu. 3.2. Đối với học sinh: 7 4. Các giải pháp, biện pháp thực hiện 4. 1. Nắm vững mục tiêu, nội dung chương trình Tiếng Việt lớp 1- CGD 1. Mục tiêu chương trình Tiếng Việt lớp 1- CGD Học xong chương trình Tiếng Việt lớp 1-CGD học sinh đạt được các mục đích sau: 1. 1. Các em đọc thông, viết thạo, không tái mù. 1.2. Các em nắm chắc luật chính tả. 1.3. Các em nắm chắc hệ thống cấu trúc ngữ âm Tiếng Việt. 2. Đối tượng chương trình Tiếng Việt lớp 1- CGD Đối tượng của môn Tiếng Việt lớp1- CGD chính là cấu trúc ngữ âm của tiếng Việt bao gồm : - Tiếng - Âm và chữ - Vần 3. Nội dung chương trình chương trình Tiếng Việt lớp 1- CGD ( gồm 4 bài) 3.1. Bài 1: Tiếng 3.2. Bài 2: Âm 3.3. Bài 3: Vần 3.4.Bài 4: Nguyên âm đôi 4. Phương pháp dạy chương trình Tiếng Việt lớp 1- CGD 4.1. Phương pháp mẫu: -Lập mẫu, sử dụng mẫu. -Làm mẫu tổ chức học sinh làm theo mẫu đã có. 4.2. Phương pháp làm việc: - Tổ chức việc học của trẻ em thông qua những việc làm cụ thể và những thao tác chuẩn xác do các em tự làm lấy. * Phần cụ thể - phần âm 1. Mục tiêu phần âm - HS nắm chắc 38 âm vị của Tiếng Việt cũng như cách viết của các âm vị này. - Biết phân biệt nguyên âm, phụ âm qua phát âm dựa vào luồng hơi bị cản hay luồng hơi đi ra tự do. - Biết ghép phụ âm đầu với nguyên âm tạo thành tiếng có thanh ngang, ghép tiếng có 9 - nhẩm - thầm theo lệnh và ký hiệu của giáo viên. Biết phân biệt đâu là âm đệm, âm chính và đâu là âm cuối, học về luật chính tả biết phân biệt được luật chính tả về âm đệm, nguyên âm đôi. Tình trạng các em đọc vẹt nhiều, muốn khắc phục những hạn thế này. Vụ Giáo dục Tiểu học hướng dẫn như sau: giáo viên nên tận dụng đồ dùng dạy học của chương trình hiện hành, làm thêm đồ dùng dạy học và chủ động sắp xếp thời gian rèn luyện kỹ năng nói, đọc cho học sinh. Để giải quyết được hai vấn đề nêu trên, giáo viên phải nắm vững vị trí, nhiệm vụ, yêu cầu dạy âm.. trong môn tiếng việt 1. Giáo viên phải hiểu rõ khả năng nhận thức cũng như các đặc điểm của quá trình nhận thức của trẻ em. Bởi vì khả năng nhận thức của học sinh Tiểu học đang hình thành và phát triển theo từng giai đoạn có quy luật riêng, người giáo viên tiểu học cần phải hiểu trẻ em với đầy đủ nghĩa của nó, mới có thể tiến hành dạy phần âm đạt hiệu quả được. * Dựa vào thực trạng của giáo viên và học sinh để đưa ra giải pháp phù hợp với đặc trưng môn TV1- CNGD được thể hiện qua 2 tiết dạy với 4 việc. Việc 1: Chiếm lĩnh ngữ âm. 1a. T giới thiệu âm mới . 1b. Phân tích tiếng . 1c. Vẽ mô hình . Việc 2: Viết chữ ghi âm 2a. Giới thiệu chữ in thường. 2b. Giới thiệu chữ viết thường. 2c. Viết tiếng có âm mới học 2d. Hướng dẫn H viết vở “Em tập viết – CNGD lớp 1” . Việc 3: Đọc. 3a. Đọc chữ trên bảng lớp. 3b. Đọc sách “Tiếng Việt – CNGD lớp 1” Việc 4: Viết chính tả. 4a. Viết bảng con. 11 bất cứ giáo viên nào khi đứng lớp, tuy nhiên giáo viên cần phải nghiên cứu, nắm vững mục tiêu bài dạy, bám sát vào Phân phối chương trình, lịch báo giảng. Đặt ra các hoạt động hợp lí thể hiện rõ hoạt động của giáo viên - học sinh, có hoạt động cho đối tượng học sinh nắm bài tốt và học sinh chưa nắm được bài. Phân loại đối tượng học sinh theo nhóm và đặt tên nhóm khi tổ chức trò chơi. Sắp xếp chỗ ngồi của học sinh trong lớp hợp lí. Quan tâm khích lệ học sinh thường xuyên, tạo cơ hội để học sinh được chủ động tích cực thông qua giờ học và thực hành. 4.3. Giúp học sinh học tốt về âm. Có thể nói môn Tiếng Việt 1 CNGD là một môn học mới giúp học sinh nắm bắt được ngữ âm trong Tiếng Việt, trong phần âm là công cụ hỗ trợ đắc lực và không thể thiếu chiếm tỉ lệ trọng yếu khi học môn Tiếng Việt. Vậy học sinh cần phải thuộc tất cả các chữ cái bảng chữ cái, thì các em mới ghép và đọc được âm, vần, tiếng, từ câu, ngoài ra tạo cơ hội cho học sinh có khẳ năng tư duy sáng tạo trong các tiết học, lấy học sinh làm trung tâm, các em sẽ là người chủ động trong các tiết học như đọc trơn, đọc hay, phân tích tốt. Bài đọc trong sách giáo khoa yêu cầu cần đạt chuẩn trang bên trái trước mà học sinh cần đạt, còn trang bên phải chỉ dành cho đối tượng học sinh nắm bài tốt và nhanh hơn, có thể lựa chọn 1 đoạn theo yêu cầu phù hợp với đối tượng học sinh để cho học sinh đọc không nhất thiết phải cho học sinh đọc cả bài. Cần bám chuẩn chương trình cụ thể: cuối học kỳ I bài đọc 20 tiếng, bài viết 1 tiếng/ phút. Học tốt tâm thế học tốt đó là 2 tuần đầu (tuần 0) cụ thể là rèn nề nếp, cách học tập, dạy gì, nghe nhận nhiệm vụ ví dụ: nói, nghe, đọc, tư thế đứng, giáo viên ghi ký hiệu trong quy trình dạy, nhưng giáo viên thực hiện có hiệu quả, lệnh giáo viên ye6uu cầu học sinh cất bảng, sách giáo khoa, vở viết như thế nào cho gọn và nhanh, tốt. Trong chương trình này giáo viên cần dạy kỹ 12 tiết bài tiếng. Còn dạy bài âm đối với học sinh không cần học qua lớp Mẫu giáo, trong tập 1 gồm có 9 tuần dạy về phần âm (lưu ý phần âm mẫu 3 là quan trọng nhất. Ví dụ: có thể học sinh đọc lại cho cô viêt, giáo viên hỏi luyện cho học sinh viết, giáo viên viết nguyên âm, phụ âm vào bìa rô ky cho học sinh đọc trước khi vào lớp, ôn hàng ngày, để học sinh thuộc lòng. Chuẩn bị đồ dùng dạy học bám sát yêu cầu bài dạy, hệ thống câu hỏi phải rõ ý, chính xác, ngắn gọn, dễ hiểu. Do vậy khi dạy về phần âm giáo viên phải thực hiện được theo 4 việc thì học sinh sẽ học được cách làm việc theo trí óc, khi thực hiện được theo 4 việc 13
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_phuong_phap_day_hoc_phan_am_mon_tieng.docx