Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng đọc cho học sinh Lớp 1
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng đọc cho học sinh Lớp 1", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng đọc cho học sinh Lớp 1
Sáng kiến kinh nghiệm: Rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 1 PHÒNG GD& ĐT CẦU KÈ CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc TRƯỜNG TH AN PHÚ TÂN A Đề Tài: RÈN KỸ NĂNG ĐỌC CHO HỌC SINH LỚP 1 Họ và tên: Phạm Thanh Sơn Chức vụ : Giáo viên tiểu học Đơn vị: Trường tiểu học An Phú Tân A – Được sự giúp đõ của Ban Giám Hiệu trường: tổ chức thao giảng, dự giờ hàng tháng, tổ chức những buổi học chuyên đề thảo luận về chuyên môn để rút ra những ý kiến hay, những đề xuất kinh nghiệm tốt áp dụng trong việc giảng dạy. – Đội ngũ giáo viên trường có tay nghề vững lâu năm trong công tác, có nhiều kinh nghiệm, có ý thức tốt về trách nhiệm người giáo viên và sẵn sàng giúp đỡ đồng nghiệp về chuyên môn cũng như giúp nhau tháo gỡ những khó khăn hay xử lý các trường hợp học sinh cá biệt về học tập cũng như hạnh kiểm. + Học sinh: – Ở độ tuổi 6 – 7 của học sinh lớp 1.Các em đa số còn rất ngoan, dễ vâng lời, nghe lời cô giáo, thích học tập và thi đua với các bạn, dễ khích lệ động viên khen thưởng vv. – Có được sự quan tâm về việc học tập của con em mình của một số phụ huynh có ý thức trách nhiệm không khoán trắng cho nhà trường cho giáo viên, à tích cực tiếp tay với giáo viên trong việc học tập của con em mình như: Chuẩn bị đầy đủ sách vở, đồ dùng học tập,thường xuyên nhắc nhở và tạo điều kiện tốt cho con em mình đến lớp cũng như học tập ở nhà. b/ Khó khăn Tuy nhiên, cùng với những thuận lợi trên, bản thân tôi vẫn còn gặp một số khó khăn sau: + Giáo viên: – Tranh ảnh minh họa có sẵn cho môn Tiếng Việt còn hạn chế. Giáo viên còn tự làm thêm đồ dùng dạy học để tạo sinh động cho tiết dạy, nên còn mất thời gian đầu tư. + Học sinh: – Trình độ học sinh trong lớp không đồng đều. Bên cạnh những em phát triển, học tốt, tiếp thu nhanh vẫn còn một số em yếu về thể chất, bé nhỏ hơn so với các bạn bình thường kèm theo phát triển chậm về trí nhớ, học trước quên sau, chậm tiến. – Còn một phần không ít phụ huynh ở vùng nông thôn sâu, không và chưa quan tâm đúng mức đến việc học tập của con em mình, chưa tạo điều kiện tốt để con em mình đến lớp cũng như nhắc nhở các em học bài, đọc bài ở nhà. – Cá biệt còn có trường hợp học sinh theo cha mẹ làm ăn xa, làm mướn theo thời vụ, nuôi vịt chạy đồng,vv. Đưa cả con đi theo, làm gián đoạn việc học tập của các em trong một thời gian dài: một tuần, nửa tháng gây ảnh hưởng đến độ liên tục của bài học trong chương trình làm mất bài học, hổng kiến thức của học sinh. II/ NHỮNG BIỆN PHÁP VÀ KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC Để giúp học sinh rèn luyện và phát triển kỹ năng đọc tôi đã áp dụng những biện pháp sau: 1/ Nắm bắt thực trạng, tình hình học sinh qua khảo sát điều tra kiến thức đầu năm. – Tìm hiểu để biết rõ số học sinh trong lớp đi học Mẫu Giáo và số học sinh Không đi học Mẫu Giáo, hoặc đi học không đều. Tìm hiểu nguyên nhân, lý do vì sao học sinh đó không đi học Mẫu Giáo. – Kiểm tra sự nắm bắt, nhận diện chữ cái các em đã học ở Mẫu Giáo và kết quả điều tra năm 2012-2013 thu được như sau: Tình hình học sinh: lớp Một A sĩ số : 25 học sinh • Học sinh không đi học Mẫu Giáo : 3 em Nhóm 1: Nét xiên Nét xiên phải / Nét xiên trái Nhóm 2: Nét móc Nét móc trên Nét móc dưới Nét móc hai đầu Nhóm 3: Nét cong Nét cong phải Nét cong trái Nét cong tròn Nhóm 4: Nét khuyết Nét khuyết trên Nét khuyết dưới Nét thắt c/ Phần học âm: Sau khi cho học sinh học thật thuộc tên gọi và cấu tạo các nét chữ cơ bản một cách vững vàng thì tiếp theo là phần học chữ cái. Giai đoạn này vô cùng quan trọng. Trẻ có nắm chắc từng chữ cái thì mới có thể ghép các được các chữ cái với nhau để tạo thành vần, thành tiếng, ghép các tiếng đơn lại với nhau tạo thành từ, thành câu. Lúc này tôi dạy cho các em nhận diện, phân tích từng nét trong từng con chữ cái và nếu chữ cái đó có cùng tên mà lại có nhiều kiểu viết – kiểu in khác nhau hay gặp trong sách báo như chữ a, chữ g thi tôi phân tích cho học sinh hiểu và nhận biết đó cũng là chữ a hay chữ g để khi gặp kiểu chữ đó được in trong sách báo trẻ dễ hiểu, dễ đọc không bị lúng túng. VD: Âm – a, g – + Âm gồm 2 nét: Nét tròn nằm bên trái và nét sổ thẳng nằm bên phải. a cũng có 2 nét : Nét tròn bên trái và nét móc trên bên phải. + Âm gồm 2 nét : Nét tròn và nét cong phải. g gồm 2 nét : Nét tròn và nét móc dưới Từ việc học kỹ cấu tạo âm bởi những nét chữ cơ bản thật kỹ và tỉ mỉ như trên sẽ giúp trẻ phân biệt được sự khác nhau cả về cất tạo và tên gọi của 4 âm sau: VD: + Âm gồm 2 nét: Nét tròn nằm ở bên trái và nét sổ thẳng ở bên phải. Đọc là : “ dờ” + Âm gồm 2 nét: Nét tròn nằm ở bên phải, nét sổ thẳng nằm ở bên trái Đọc là : “bờ”. Sang phần âm ghép ( chữ có hai âm ghép lại với nhau). Tôi cho học sinh sắp xếp các âm có âm h đứng sau thành một nhóm để thấy được sự giống nhau và khác nhau của các âm đó. VD: + Các âm ghép: ch – c nh – n gì ở trên vần ăm (dấu huyền) vậy ta có thể ghép và đánh vần : tờ – ăm – tăm- huyền – tằm, đọc trơn : tằm, ghép từ : con tằm . Giáo viên có thể sử dụng tranh minh họa để cho học sinh hứng thú được nhìn vào tranh ảnh sinh động hoặc mẫu vật thật để gợi trí tò mò, ham học hỏi của học sinh giúp các em chủ động trong giờ học. e/ Phần tập đọc: – Đây là giai đoạn khó khăn đối với học sinh. Nhất là đối tượng học sinh trung bình, yếu. Học sinh khá- giỏi đã vững phần chữ cái, nắm vững phần vần chỉ nhìn vào bài là các em đọc được ngay tiếng, từ hoặc câu khá nhanh vì khả năng nhận biết tốt. Còn học sinh trung bình, yếu các em nhận biết còn chậm, chưa nhìn chính xác vần nên ghép tiếng rất chậm, ghép tiếng chậm dẫn đến đọc từ chậm và đọc câu rất khó khăn. Vì thế đối với các học sinh này, sang phần tập đọc giáo viên cần hết sức kiên nhẫn, giành nhiều cơ hội tập đọc cho các em giúp các em đọc bài từ dễ đến khó, từ ít đến nhiều. giáo viên tránh nóng vội để đọc trước cho các em đọc lại dẫn đến tình trạng đọc vẹt và tính ỷ lại thụ động của học sinh.Giáo viên nên cho học sinh nhẩm đánh vần lại từng tiếng trong câu, đánh vần xong đọc trơn lại tiếng đó nhiều lần để nhớ sau đó nhẩm đánh vần tiếng kế tiếp lại đọc trơn tiếng vừa đánh vần rồi đọc lại từng cụm từ. VD: Dạy bài tập đọc Trường Em (sách giáo khoa Ttiếng Việt 1) 1. Học sinh chưa đọc được tiếng trường, giáo viên nên cho các em đánh vần tiếng trường bằng cách phân tích như sau: GV: Tiếng trường gồm có âm gì và ghép với vần gì? Có dấu thanh gì? HS: Tiếng trường gồm có âm tr ghép với vần ương và dấu thanh huyền. GV: Vậy đánh vần tiếng trường thế nào? HS: trờ – ương – trương – huyền – trường. GV: Đọc trơn tiếng này thế nào? Hs: Trường. Rồi cho học sinh đọc nối tiếp: trường em. 2/ Học sinh yếu không đọc được tiếng trường GV nên cho học sinh ôn lại cấu tạo vần ương trong tiếng trường. GV: Vần ương gồm có mấy âm? HS: Vần ương gồm có 2 âm. Âm đôi ươ và âm ng. GV: Vị trí các âm trong vần thế nào? HS: Âm đôi ươ đứng trước, âm ng đứng sau. GV: Đánh vần và đọc trơn vần ương. HS: ươ- ng- ương, ương GV: Thêm âm tr vào trước vần ương và dấu huyền trên vần ương.Ta đánh vần, đọc trơn tiếng thế nào? HS: Trờ – ương – trương- huyền – trường, trường và sau mỗi lần đánh vần, cho học sinh đọc trơn lại tiếng vừa đành vần nhiều lần để khắc sâu vào trí nhớ học sinh. III/ NHỮNG PHƯƠNG TIỆN DẠY HỌC bình, yếu để đọc nhiều hơn nhằm giúp các em cố gắng đọc để thi đua và tạo cho các em khả năng đọc nhanh, đọc đúng. 5/ Phương pháp nhận xét nêu gương. Để nâng dần chất lượng học sinh trong lớp, muốn cho trình độ học sinh đồng đều vào cuối năm học, tôi thường trò chuyện với học sinh trung bình – yếu để dẫn dụ các em cố gắng hơn cho kịp bằng các bạn. Tôi cho các em nhận xét các bạn giỏi trong lớp. VD: Bạn Chi, bạn Thư đọc giỏi, học giỏi vì các bạn ấy rất chăm chỉ đọc bài và đọc rất nhiều ở nhà. Ở lớp các bạn cũng rất cố gắng đọc bài và luyện tập thêm để ngày càng đọc tốt đọc hay hơn. Các bạn luôn thi đua với nhau xem ai đọc nhiều hơn, ai đọc đúng hơn và ai đọc hay hơn. Các em cũng sẽ đọc giỏi như các bạn ấy nếu có cố gắng đọc nhiều, như các bạn : đọc chưa thông,đọc chưa nhanh thì đánh vần, đọc nhẩm nhẩm xong đọc to lên và cứ thế mà đọc mãi, đọc đi đọc lại, đọc đến khi nào nhìn vào chữ là đọc được ngay mới thôi. Và tôi đã cũng đọc với các bạn nhỏ trung bình – yếu ấy, nhằm giúp đỡ khả năng đọc bài, cũng như giúp các em phân tích tiếng, cách đọc một tiếng, cách đọc sao cho nhanh như: nhẩm âm đầu → nhẩm vần → ghép âm đầu với vần → ghép dấu thanh thành tiếng vv V. KẾT QUẢ Trong quá trình áp dụng các biện pháp, phương pháp trên để rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp 1. Tôi đã thu nhặt được những kết quả đáng khích lệ sau: – Số học sinh yếu giảm dần trong năm học: Đây là một kết quả rất đáng mừng, bù đắp cho công sức và sự kiên nhẫn của giáo viên đứng lớp. VI/ BÀI HỌC KINH NGHIỆM Rèn kỹ năng đọc cho học sinh là đọc đúng âm, vần, tiếng,từ,câu,đoạn,bài vvĐọc còn yêu cầu học sinh biết ngắt nghỉ đúng ở dấu phẩy, dấu chấm, đọc còn yêu cầu các em phát âm chuẩn, chính xác các con chữ để khi viết các em không nhầm lẫn dẫn đến sai lỗi chính tả. Số học sinh đọc yếu Năm học Sĩ số học sinh Cuối năm Đầu năm Cuối kỳ I 2008 – 2009 25 18 7 0 2009 – 2010 26 21 5 0 Vì thế để phân môn tập đọc của học sinh lớp 1 có kết quả cao. Giáo viên chủ nhiệm lớp phải nắm vững đặc điểm tâm sinh lý của học sinh, phải yêu học sinh như chính con mình, biết rõ mặt mạnh,mặt yếu của học sinh để bồi dưỡng, luyện tập. Trong từng tiết dạy giáo viên phải xác định khối lượng kiến thức cần truyền thụ cho học sinh thông qua mục đích, yêu cầu của bài dạy. Khi giảng dạy cần lựa chọn nhiều phương pháp phù hợp, vận dụng việc đổi mới phương pháp trong giảng dạy đó là lấy học sinh làm trung tâm, phải khơi gợi cho học sinh tính chủ động, ham thích học, đọc bài. Việc chuẩn bị đồ dùng dạy học cũng được coi trọng hàng đầu và nên thường xuyên sử dụng thiết bị dạy học. Giáo viên cần dẫn dắt học sinh đọc một cách nhẹ nhàng, dí dỏm, tạo cho các em sự tin cậy, yêu mến cô giáo, tinh thần vui vẻ, hồn nhiên để học tập. Khi đọc mẫu giáo viên nên phát âm chuẩn xác để học sinh bắt chước và vững vàng trong cách đọc tránh đọc sai để ảnh hưởng đến học sinh.
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_ren_ki_nang_doc_cho_hoc_sinh_lop_1.docx