Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kỹ năng nói cho học sinh Lớp 1
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kỹ năng nói cho học sinh Lớp 1", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kỹ năng nói cho học sinh Lớp 1
I. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Theo các nhà nghiên cứu tâm sinh lí trẻ em cho biết nếu trẻ em không nhận được sự trợ giúp đầy đủ để phát triển các kĩ năng giao tiếp bằng lời trong những năm đầu tiên của cuộc đời thường khó khăn trong giao tiếp xã hội và phát triển cảm xúc khi các em lớn lên. Quá trình tư duy của trẻ thay đổi kéo theo việc học ngôn ngữ cũng thay đổi. Lúc này trường tiểu học trở thành môi trường giáo dục tốt nhất hướng dẫn trẻ phát triển vốn từ, học các cấu trúc chính xác của tiếng mẹ đẻ, mở mang hiểu biết, hoàn thiện nhân cách. Những điều nêu trên cho thấy, việc học tiếng nói chung và việc rèn kĩ năng nói nói riêng ở tiểu học cần dựa trên nền tảng vốn sống, kinh nghiệm sử dụng ngôn ngữ của trẻ để tiếp tục phát huy năng lực ngôn ngữ, năng lực tư duy bằng ngôn ngữ nói của trẻ em. Thông qua hoạt động nói các em sẽ phát huy được vốn ngôn ngữ tiếng Việt, nói đúng cấu trúc ngữ pháp, mở rộng thêm vốn từ, làm cơ sở cho việc tiếp thu tri thức sau này. Cũng nhằm hình thành thói quen, ý thức giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của tiếng Việt, góp phần hoàn thiện nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Vì ngoài việc cung cấp cho học sinh hệ thống câu từ, lời nói còn rèn luyện cho các em tính cẩn thận, sự tự tin trước đám đông, trách nhiệm với bản thân và tôn trọng người tham gia giao tiếp. Thế nhưng trong thực tế hiện nay ở những giờ luyện nói tình trạng học sinh nói không đủ ý, ngôn ngữ diễn đạt còn lộn xộn, chưa lô gic. Nhiều học sinh nhút nhát không muốn trình bày, chia sẻ với các bạn những điều mình nghĩ, mình biết hoặc có nói thì cũng nói trống không, không rõ nghĩa. Thậm chí có một số em đã học đến trung học cơ sở mà trước lớp học diễn đạt vẫn chưa trôi chảy. Đây là vấn đề nhiều giáo viên gặp khó khăn khi giảng dạy và chưa hài lòng về học sinh của mình. 2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài. Giúp các em giữ gìn và phát huy sự trong sáng của Tiếng Việt qua ngôn ngữ nói. Thể hiện tình yêu đất nước, tinh thần đoàn kết các dân tộc anh em trong lớp học, trường học và trên lãnh thổ Việt Nam cũng như trên thế giới. Góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh 3. Đối tượng nghiên cứu Tất cả các em học sinh khối 1 trong những năm học trước đây và học sinh lớp 1A nói riêng của trường tiểu học Hoàng Văn Thụ năm học 2013 – 2014. 4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu Xuyên suốt trong quá trình dạy học học sinh khối 1 và học sinh lớp 1A của trường tiểu học Hoàng Văn Thụ năm học 2013 – 2014 và học kì 1 năm học 2014 - 2015. 1 + Khó khăn: - Trong quá trình dạy vì đa số các em là học sinh dân tộc thiểu số tại chỗ. Khi ở nhà các em giao tiếp với gia đình hầu hết là tiếng mẹ đẻ nên vào lớp 1 người giáo viên gặp rất nhiều khó khăn khi giao tiếp với học sinh nói chung và học sinh dân tộc thiểu số nói riêng. b. Thành công – hạn chế + Thành công: Hầu hết các em được học qua do tôi chủ nhiệm, các em đều nói tốt, kĩ năng nói phát triển như nói đúng trọng tâm câu hỏi, nói đủ ý câu, biết vươn lên trong học tập, có kĩ năng sống tốt hơn. + Hạn chế: * Đối với giáo viên: Còn có giáo viên - Chưa kiểm soát kết quả học sinh luyện nói theo nhóm, khiến việc tổ chức cho học sinh hoạt động nhóm chỉ mang tính hình thức, chưa hiệu quả. - Chưa có biện pháp khuyến khích học sinh luyện nói có hiệu quả. - Chưa xác định trọng tâm của giờ học cũng như chưa linh hoạt trong việc tập trung vào những kĩ năng còn hạn chế của học sinh. * Đối với học sinh: - Các em còn lúng túng khi nói chính là các em còn hạn chế vốn sống, vốn hiểu biết và kinh nghiệm giao tiếp dẫn đến việc các em không biết nói gì với các chủ đề luyện nói theo yêu cầu bài học hoặc trong quá trình học tập. c. Mặt mạnh, mặt yếu + Mặt mạnh: - Hầu hết các em phát huy được những ưu điểm khi tôi hướng dẫn luyện nói qua các giờ học thông qua hoạt động giao tiếp “đàm thoại” + Mặt yếu: - Những em chưa thông thạo Tiếng Việt việc hướng dẫn các em luyện nói có phần hạn chế. d. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động: - Nhờ sự tạo điều kiện giúp đỡ về thời gian của lãnh đạo trường, sự phối hợp đồng bộ của giáo viên trong toàn khối và giáo viên bộ môn, kết hợp với sự quan tâm nhiệt tình của giáo viên chủ nhiệm đối với từng học sinh kể cả vật chất lẫn tinh thân nên việc đồng tình ủng hộ của cha mẹ học sinh kết quả đạt được có khả thi. e. Phân tích, đánh giá các vấn đề và thực trạng mà đề tài đã đặt ra. Một tiết học tốt không có nghĩa là học sinh cứ khoanh tay, ngồi im lặng trong khi giáo viên vẫn cứ giảng bài say sưa, để rồi khi cô hỏi, học sinh chẳng biết gì để mà trả lời. Như vậy chúng ta lại quay lại phương pháp dạy học cũ: Là thầy nói – trò nghe. Mà muốn để có tiết học tốt thì ta phải nghĩ tới hướng tích cực, giúp các em tiếp thu bài một cách chủ động, độc lập trong suy nghĩ, phát huy tính sáng tạo của các em. Song khi các em đã suy nghĩ được điều mà mình biết, muốn nói nhưng lại ngại không giám nói vì không biết bắt đầu từ đâu. Do vậy việc nắm bắt sự hiểu bài của các em đối với giáo viên rất khó. Để có một tiết học sinh động, để giúp giáo viên đánh giá được tất cả học sinh của mình dạy hiểu bài ở mức độ nào thì việc đàm thoại trong mỗi tiết dạy đều rất quan trọng, thiết thực bắt đầu từ việc đàm thoại mà giáo viên chỉ là người thiết kế (đưa ra các câu hỏi), động viên học sinh tham gia trả lời, nhận xét lẫn nhau. 3 Mai có: 10 kẹo Mai cho: 4 kẹo Mai còn:kẹo? Từ tóm tắt bài toán, các em sẽ phải hiểu được nội dung trọn vẹn của đề và giáo viên thường yêu cầu nhìn tóm tắt, đọc đề toán, Ở đây đã triển khai từ thu hẹp góc độ đề sẽ mở rộng đề qua ngôn ngữ nói: Mai có 10 kẹo, Mai cho bạn 4 kẹo. Hỏi Mai còn lại mấy(bao nhiêu) kẹo? để từ đó giúp các em giải bài toán có lời giải đúng, đủ, rõ nghĩa. + Trong môn âm nhạc: Trong quá trình dạy môn âm nhạc (phần dạy lời bài hát), bao giờ giáo viên cũng cho các em được đọc lời bài hát. Đó cũng là một phần trong việc rèn nói (nói đúng lời bài hát), sau đó hướng dẫn các em hát và yêu cầu hát thuộc lời bài hát. Khi các em tập hát to, ngay cả khi chúng ở nhà một mình, trẻ sẽ vượt qua nỗi sợ diễn thuyết. hát thuộc lời bài hát đúng giai điệu bài hát đó được đánh giá là có năng khiếu hát, góp phần tham gia vào kĩ năng nói. + Trong môn Tiếng Việt: Cuối mỗi bài (phân môn học vần) đều có mục luyện nói song không phải cứ đến mục này thì các em mới được tham gia nói, mà trong quá trình đàm thoại như khi bắt đầu vào học vần mới là nhận diện vần, các em đã được tham gia nóí, giáo viên định hướng, uốn nắn cho học sinh nói từ nói đúng đến nói đủ, không nên trả lời trống không. Ví dụ khi dạy vần ôt - ơt (bài 70 ) Dạy vần ôt: Ghi và hướng dẫn học sinh nhận diện vần. - Vần gồm mấy âm? (Học sinh trả lời: Vần gồm hai âm: Âm ô đứng trước, âm t đứng sau). Đến đây giáo viên cũng cần uốn nắn ngay từ đầu để các em cần nói đúng, đủ, kể cả học sinh khác tham gia nhận xét cũng vậy. (ví dụ: Em thưa cô bạn trả lời đúng, đủ rồi ạ; hoặc bạn nói (trả lời) đúng (gần đúng) rồi ạ) . Không nên để học sinh trả lời cộc lốc như: đúng – sai qua ngôn ngữ nói Đến khi xây dựng tiếng: Đã có vần ôt, muốn có tiếng cột ta phải thêm âm gì và thanh gì? (Thường thì học sinh hay trả lời: âm c và thanh nặng), nhưng giáo viên cần uốn nắn cho các em nói đúng, đủ ý câu: (Đã có vần ôt, muốn có tiếng cột ta phải thêm âm c đứng trước vần ôt và thêm thanh nặng dưới âm ô). Khi xây dựng và rút ra từ khóa: cột cờ. Giáo viên cần giúp đỡ các em nói được: Từ cột cờ có hai tiếng, tiếng cột đứng trước, tiếng cờ sau. Khi dạy đến vần 2 (ơt), yêu cầu so sánh hai vần, giúp các em nói được: hai vần giống nhau đều có âm (t) đứng cuối vần; hai vần khác nhau hai âm đầu vần (âm ô khác âm ơ). Như vậy cứ sau một hoạt động, giáo viên đều cho các em tự nhận xét về câu trả lời của bạn, đó cũng chính là hình thức tăng cường Tiếng Việt (hay đó chính là động viên các em phát triển lời nói tự nhiên). Giáo viên cần quan sát và nếu còn có học sinh luyện nói chưa tốt, giáo viên nên hướng dẫn cho các em thực hành nói theo mẫu. 5 Tuyên truyền tới cha mẹ học sinh giúp con mình phát triển kĩ năng ngôn ngữ nói Tiếng Việt tại nhà như: Nói đúng theo nội dung, đủ ý câu, lưu loát. Đối với phụ huynh là người dân tộc thiểu số: Giáo viên cần gặp trực tiếp và góp ý khi giao tiếp ở nhà bằng tiếng Việt, không nên nói tiếng mẹ đẻ nhiều nhưng vẫn cần giữ gìn bản sắc văn hoá, phong tục tập quán riêng. * Kết hợp với anh ( chị ) đội viên khi sinh hoạt sao. Đối với học sinh lớp một việc ghi nhớ của các em chưa được vững chắc, dễ nhớ nhưng cũng rất mau quên nên ngoài việc luyện nói trong giờ tiếng Việt ra giáo viên cần duy trì việc uốn nắn cho các em có được kĩ năng nói thành câu, trôi chảy ở các hoạt động giao tiếp khác như: Khi các em tham gia sinh hoạt sao được các anh chị đội viên lớp trên xuống sinh hoạt, giáo viên nên hướng dẫn và kết hợp với anh chị đội viên này để hướng dẫn các em hát, múa, thể dục. Giúp các em mạnh dạn, tự tin trước tập thể, góp phần mạnh dạn khi nói trước đám đông. *Tuyên dương, động viên, nhắc nhở kịp thời. Mỗi khi học sinh học tập tốt ở tất cả mọi lĩnh vực trong đó có phần luyện nói, kĩ năng nói tốt thì giáo viên cần tuyên dương kịp thờì, đây là động lực thúc đẩy có hiệu quả cao nhất giúp các em đã làm tốt phát huy, những em chưa mạnh dạn, chưa tự tin khi nói cũng tự điều chỉnh. Không nên chê hoặc phạt khi các em nói chưa đúng theo ý mình mà cần giúp các em hiểu nội dung cần nói để các em tham gia nói tích cực. Đối với học sinh tiểu học, giáo viên là người chuẩn mực nhất, tuyệt vời nhất, nói gì cũng đúng. Chính vì thế nên giáo viên phải có kĩ năng nói chuẩn, đúng, ngoài ra cần có kĩ năng nói truyền cảm khi kể chuyện. c/ Điều kiện để thực hiện giải pháp, biện pháp. Giáo viên cần nắm vững và hiểu rõ vai trò của việc nói và kĩ năng nói.Cần có sự hỗ trợ đồng bộ của giáo viên bộ môn và giáo viên dạy thay cũng như kinh nghiệm của giáo viên trong toàn khối 1. d/ Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp Các giải pháp, biện pháp như tôi vừa trình bày nó có quan hệ mật thiết và lôgic xuyên suốt trong quá trình dạy học kể cả giờ học chính khoá cũng như ngoại khoá cũng như tiết sinh hoạt lớp. e/ Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu. - Qua khảo nghiệm thu được những kết quả khả thi. Đa số học sinh nói tốt và có kĩ năng nói tốt. Nói đúng, nói đủ ý câu, góp phần nâng cao chất lượng học tập cho các em. Kết quả khảo nghiệm năm học 2013 – 2014 của lớp 1A trường tiểu học Hoàng Văn Thụ do tôi chủ nhiệm ( TSHS 17 em, trong đó có 2 học sinh khuyết tật nặng; 10 em là học sinh dân tộc thiểu số tại chỗ). 7 ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN CẤP TRƯỜNG ...................................................................................................................................... ...................................................................................................................................... ...................................................................................................................................... ...................................................................................................................................... ................................................................................................................................... CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN (Ký tên, đóng dấu) ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN CẤP HUYỆN ...................................................................................................................................... ...................................................................................................................................... ...................................................................................................................................... ...................................................................................................................................... ................................................................................................................................... CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN (Ký tên, đóng dấu) 9
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_ren_ky_nang_noi_cho_hoc_sinh_lop_1.doc