Sáng kiến kinh nghiệm Rèn phát âm tiếng Việt cho học sinh Lớp 1 dân tộc Mông
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Rèn phát âm tiếng Việt cho học sinh Lớp 1 dân tộc Mông", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Rèn phát âm tiếng Việt cho học sinh Lớp 1 dân tộc Mông
ỦY BAN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN UYÊN PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO Tổ chuyên môn Tiểu học SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM “RÈN PHÁT ÂM TIẾNG VIỆT CHO HỌC SINH LỚP 1 DÂN TỘC MÔNG” Họ và tên người thực hiện: Nguyễn Thị Lan Chức vụ: Cán bộ chuyên môn TẤN UYÊN, THÁNG 3 NÁM 2013 tìm hiểu chuyên đề “Rèn phát âm tiếng Việt cho học sinh lớp 1 dân tộc Mông” từ đó đưa ra một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng đọc, hiệu quả học môn Tiếng Việt cho học sinh dân tộc Mông. II. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu 1. Phạm vi nghiên cứu Học sinh lớp 1, giáo viên dạy lớp 1 của 02 trường Tiểu học (Tiểu học xã Hố Mít và Tiểu học Hô Be xã Phúc Khoa) 2. Đối tượng nghiên cứu Biện pháp rèn phát âm tiếng Việt cho học sinh lớp 1 dân tộc Mông. III. Mục đích nghiên cứu Tìm hiểu thực trạng và tìm ra biện pháp hữu hiệu khắc phục, giải quyết triệt để lỗi phát âm sai tiếng Việt của học sinh lớp 1dân tộc Mông. Từ đó góp phần nâng cao chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên, nâng cao chất lượng đọc của học sinh nhất là đọc hiểu tiếng Việt, dần dần nâng cao chất lượng môn học Tiếng Việt của 02 trường Tiểu học, góp phần đưa chất lượng giáo dục ngày một tốt hơn. Đồng thời đổi mới quan điểm chỉ đạo của các nhà quản lý giáo dục trong các trường Tiểu học về việc rèn đọc phát âm đúng tiếng Việt cho học sinh là rất quan trọng nhưng với những học sinh là người dân tộc Mông thì càng quan trọng hơn vì chỉ có ở bậc Tiểu học các em mới được rèn kỹ năng nghe, đọc, nói, viết. Các kỹ năng này của học sinh có phát triển tốt hay không phụ thuộc vào quá trình rèn luyện của người giáo viên tiểu học. IV. Điểm mới trong kết quả nghiên cứu - Tìm ra được biện pháp sửa sai trong quá trình phát âm tiếng Việt cho học sinh lớp 1 dân tộc Mông, chủ yếu là nắm được quy tắc chính âm, chính tả kết hợp với sử dụng khẩu hình để uốn nắn học sinh. - Tính sáng tạo khắc phục được những lỗi mà học sinh thường mắc phải để mỗi giáo viên có hướng rèn luyện, bồi dưỡng hiệu quả việc phát âm sai tiếng Việt của học sinh dân tộc Mông khi bắt đầu bước vào lớp đầu cấp. Thanh điệu 5 Âm đầu 1 Vần Âm đệm Âm chính Âm cuối 2 3 4 * Thành phần ở vị trí 1 là âm đầu do các phụ âm đảm nhiệm. * Thành phần ở vị trí 2 là do âm đệm, đó là nguyên âm trong chữ viết, được thể hiện bằng chữ o chẳng hạn (Loan); bằng chữ u (Xuân)... * Thành phần ở vị trí 3 là âm chính do các nguyên âm đảm nhiệm. Âm chính là hạt nhân của âm tiết. * Thành phần ở vị trí 4 là âm cuối, do các phụ âm bán nguyên âm (i, y, u, o) đảm nhiệm. * Các thành phần ở vị trí 2, 3, 4 ghép lại với nhau thành một bộ phận gọi là phần vần. Âm bao giờ cũng phải có âm chính và thanh điệu, vị trí còn lại có thể có hoặc không. - Âm tiết tiếng Việt có cấu trúc hai bậc: Bậc thứ nhất bao gồm các thành tố của thành phần vần. Bậc 2: Âm đệm Âm chính Âm cuối * Thanh điệu là sự thay đổi của những âm tiết: ma, má, mã đối lập với mà, mả, mạ. Các âm tiết trước đều được phát âm với cao độ cao, các âm tiết sau phát âm với cao độ thấp. * Thanh điệu là sự thay đổi về âm điệu, trong những âm tiết trên thì những âm A là âm chính N là âm cuối Oan là phần vần. Ngôn ngữ học đã chỉ rõ những nội dung cụ thể về các vấn đề của ngôn ngữ như chữ viết, chính âm, chính tả, nghĩa của từ, câu, đoạn, văn bản, ngữ điệu, nhịp điệu, tình cảm ngôn ngữ,... Đó là những vấn đề gắn bó trong việc dạy và học Tập đọc của thầy và trò bậc Tiểu học. Ngoài ra khi phát âm các âm tiếng Việt cũng chú trọng đến khẩu hình như sau: Nguyên âm tiếng Việt có nhiều dạng khẩu hình rộng, hẹp khác nhau, có nhiều nguyên âm đòi hỏi khẩu hình tròn nhiều, tròn ít hoặc tròn to, tròn nhỏ chẳng hạn: - Nguyên âm a-khẩu hình mở rộng hơi tròn răng cửa trên hơi lộ ra, mặt lưỡi bằng, đầu dưới tiếp giáp nhẹ với răng hàm dưới-tính chất âm không sắc nhọn như i, e, cũng không tối như o, u. - Nguyên âm e -khẩu hình không rộng, răng trên hơi lộ phần lưng lưỡi hơi nhô lên tính chất sáng sủa. - Nguyên âm i-khẩu hình hẹp, răng trên hơi lộ càng ít hơn e, lưng lưỡi càng tiếp cận lên phía vòm miệng trên. Tính chất sáng nhưng sắc nhọn. - Nguyên âm o-khẩu hình tròn, nhưng không rộng bằng a, phần giữa của môi trên nhô ra phía trước một chút tính chất âm u. - Nguyên âm u-là khẩu hình ô thu nhỏ lại, môi thu gọn và nhô ra ngoài như khẩu hình huýt sáo, tính chất âm u hơn o. Trong phát âm tiếng Việt ta cũng cần lưu ý đến phương pháp nhả chữ: Chữ tiếng Việt là hình thức đơn âm đa thanh, mỗi chữ phát ra một âm nếu âm thanh khác ta hiểu sang một nghĩa khác. Rèn phát âm tiếng Việt cho học sinh lớp 1 dân tộc Mông thực chất là dạy cho học sinh biết đọc, nói đúng chính âm, vần, tiếng, từ, câu, đoạn, bài, đọc, nói đúng ngữ điệu, nhịp điệu, dần biết tư duy, tưởng tượng, hình thành ý thức tốt đẹp trong tâm hồn và có hành động đẹp, nghĩa là học sinh biết chuẩn ngôn ngữ tiếng Việt. Đây là một nghệ thuật, nghệ thuật trong lao động dạy học sáng tạo của người thầy Tiểu học. Rèn phát âm phải tinh tế, sáng tạo, hiệu quả nhưng phải gần gũi với thực tế cuộc sống của các em chính là đã nghiên cứu vận dụng tốt những thành tựu của ngôn ngữ văn học để chuyển thành văn bản viết tiếng Việt đúng, chính xác. 3. Cơ sở giáo dục và phát triển Rèn phát âm tiếng Việt cho học sinh lớp 1 dân tộc Mông là một phần thực hành trong các giờ học (đặc biệt là dạy học Tiếng Việt). Nhiệm vụ quan trọng của nó là hình thành năng lực đọc, nói cho học sinh. Năng lực đó thể hiện ở 4 yêu cầu: Đọc đúng, đọc nhanh, đọc có ý thức (đọc hiểu) và đọc hay (đọc diễn cảm), nói đúng chuẩn. Cần phải hiểu kĩ năng đọc, nói có nhiều mức độ, nhiều tầng bậc khác nhau. Đầu tiên là giải mã chữ - âm tiếng Việt một cách sơ bộ, đọc, nói đúng âm, vần, tiếng, từ tiếp theo đọc, nói là phải hiểu được nghĩa của từ, tìm được các từ, câu “chìa - Sau khi tiến hành khảo sát thực trạng, tổ chức hội thảo, trao đổi, thảo luận với các giáo viên chủ nhiệm và BGH thống nhất đưa ra một số thực trạng phát âm sai tiếng Việt ở một số lỗi cơ bản của 86 học sinh lớp 1 dân tộc Mông của hai trường như sau: Khi học các em thường phát âm sai: + 73 em khi phát âm (nói, đọc) bị khuyết âm ví dụ: thuồng luồng thường phát âm thành thuồn luồn, chín điểm thành chí đỉa... + 39 em khi phát âm (nói, đọc) thay đổi âm cuối: xà beng biến đổi thành xà bem, vần em lẫn sang vần eng, nhầm eo/oe, ưu/ươu, eng/anh, ua/ươ, êch/êc,... + 27 em khi phát âm (nói, đọc) lẫn các thanh điệu, nhầm thanh điệu. + 24 em khi phát âm (nói, đọc) bị bỏ đi mất nguyên âm o, ơ, ư, e ... + 31 em khi phát âm (nói, đọc) sai l thành đ, b thành v, t thành th... Từ kết quả trên tôi nhận thấy các nguyên nhân chủ yếu: * Nguyên nhân về phía học sinh: Thứ nhất khác với học sinh người kinh, trước khi đến trường, đa số học sinh dân tộc Mông chưa biết sử dụng tiếng Việt. Thực tế các em cũng được trải qua sự chăm sóc của lớp Mầm non, nhưng vốn kiến thức ban đầu về tiếng Việt, như những mẫu hội thoại đơn giản mang tính bắt đầu, những kỹ năng cơ bản như nghe, nói mà trường Mầm non đã trang bị cho các em, vì những lý do khách quan khác nhau đã không còn theo các em bước vào lớpl. Bởi trong sinh hoạt gia đình, cộng đồng, người dân ở đây, cũng như các em chỉ sử dụng tiếng mẹ đẻ nên khi bước ra thế giới bên ngoài, vào môi trường giáo dục phổ thông, tiếng Việt lúc bấy giờ là ngôn ngữ thứ hai của các em. Việc giao tiếp thông thường với thầy cô giáo đã khó khăn và cũng có khi là không thể, việc nghe giảng những kiến thức về các môn học khác nhau bằng tiếng Việt lại càng khó khăn hơn đối với các em. Đến trường, đến lớp là các em bước đến một môi trường sinh hoạt hoàn toàn xa 10 lạ, tâm lý rụt rè, e sợ luôn thường trực trong các em, làm giảm tốc độ bước chân các em đến trường. Thứ hai học sinh Tiểu học dân tộc Mông học tiếng Việt là học ngôn ngữ thứ hai. Mặc dù học sinh đã trải qua các lớp ở bậc Mầm non nhưng đối với các em, trường Tiểu học vẫn là một môi trường hoàn toàn mới, tiếng Việt là một ngôn ngữ hoàn toàn xa lạ. Sự tồn tại của tình trạng này trong đời sống các em là do điều kiện sử dụng ngôn ngữ trong đời sống sinh hoạt cộng đồng, là do tâm lý sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ rất tự nhiên, bản năng. Những buổi sinh hoạt cộng đồng, những lần hội họp, người địa phương chỉ sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ. Họ ngại sử dụng tiếng Việt, có lẽ vì vốn kiến thức về tiếng Việt ở họ quá ít ỏi, cũng có lẽ vì bản năng ngôn ngữ mẹ đẻ thường trực trong họ. Chính vì thế, mỗi lần các cán bộ xã, huyện về chủ trì một cuộc họp nào đó ở làng, bản, họ phát biểu bằng tiếng Việt rất khó khăn. Thói quen này trong sử dụng ngôn ngữ sẽ ảnh hưởng vào trong đời sống gia đình của mỗi cá nhân, học sinh vẫn sử dụng tiếng mẹ đẻ khi rời trường, rời lớp. Dần dà các em không thể sử dụng tiếng Việt, quên ngay những kiến thức về tiếng Việt đã học trên lớp, từ đó, đã khiến cho các em thụ động, thiếu linh hoạt khi ở môi trường giao tiếp lớn hơn, vượt khỏi cũng sai những lỗi đó (đặc trưng dân tộc). * Nguyên nhân về công tác chỉ đạo của Ban giám hiệu -Ở các đơn vị trường việc chọn tuyển được giáo viên có năng lực chuyên môn, có nhiều kinh nghiệm, nhiệt tình trong việc rèn, dạy học sinh lớp 1 còn gặp không ít khó khăn. Có những giáo viên có chuyên môn vững vàng, có lòng nhiệt tình trăn trở với lớp học nhưng lại thiếu đi kinh nghiệm dạy, rèn các kĩ năng cho học sinh... - Các trường đều xây dựng kế hoạch chỉ đạo thực hiện chuyên môn chưa phù hợp theo nhiệm vụ được giao trong từng năm học. - Ban Giám hiệu các trường đã tạo điều kiện cho giáo viên giao lưu, dự giờ, trao đổi, học hỏi kinh nghiệm giảng dạy của các đơn vị Tiểu học tiên tiến trong huyện xong một số giáo viên chưa thực sự nhiệt tình, chưa tự giác, chủ động trong việc tự đi dự giờ học hỏi kinh nghiệm và phương pháp giảng dạy. - Chất lượng đọc tiếng Việt của học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số còn chưa cao, nhất là chất lượng đọc của học sinh dân tộc Mông. - Giáo viên tuyển mới nhiều nên chưa có nhiều kinh nghiệm trong giảng dạy. - Ban Giám hiệu các đơn vị trường đã quan tâm tới chất lượng giảng dạy, nhưng chưa thực sự làm tốt công tác tuyên truyền và chưa thật sự quan tâm chỉ đạo việc rèn phát âm, rèn đọc tiếng Việt cho học sinh lớp 1 là dân tộc thiểu số. - Một số ít các đồng chí quản lí chưa thực sự quan tâm đến việc tổ chức sinh hoạt chuyên môn theo cụm, chưa tích cực tạo điều kiện cho giáo viên đi giao lưu học hỏi về chuyên môn. - Số lượng giáo viên mới quá đông cùng với số lượng giáo viên nữ trong độ tuổi sinh đẻ nhiều dẫn đến việc lựa chọn giáo viên dạy lớp 1 còn gặp nhiều khó khăn. * Nguyên nhân về phía Tổ chuyên môn - Chưa thực sự quan tâm đến việc rèn phát âm tiếng Việt cho học sinh dân tộc Mông dẫn đến chưa đưa vấn đề thuộc chuyên đề này vào các buổi sinh hoạt chuyên môn. Sau thực tế đã tiến hành phân tích, tìm hiểu nguyên nhân và để khắc phục chất lượng phát âm (đọc, nói) tiếng Việt của học sinh dân tộc thiểu số nói chung và của học sinh lớp 1 dân tộc Mông, tôi đã mạnh dạn trình bày hệ thống biện pháp sau. III. Các biện pháp rèn phát âm tiếng Việt cho học sinh lớp 1 dân tộc Mông 1. Đối với Ban Giám hiệu các trường - Tập trung tuyên truyền bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ về phẩm chất đạo đức, về kiến thức và kỹ năng sư phạm. Tích cực xây dựng tập thể sư phạm đoàn kết, lớn mạnh về mọi mặt. Tổ chức tuyên truyền rộng rãi trong cộng đồng và hướng dẫn gia đình biết phối hợp hỗ trợ sử dụng tiếng phổ thông (tiếng Việt) làm công cụ giao tiếp và sinh hoạt hàng ngày.
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_ren_phat_am_tieng_viet_cho_hoc_sinh_lo.docx
- Sáng kiến kinh nghiệm Rèn phát âm tiếng Việt cho học sinh Lớp 1 dân tộc Mông.pdf