SKKN Một số biện pháp rèn đọc học sinh còn hạn chế về Năng lực - Phẩm chất môn Tiếng Việt Lớp 1
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số biện pháp rèn đọc học sinh còn hạn chế về Năng lực - Phẩm chất môn Tiếng Việt Lớp 1", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Một số biện pháp rèn đọc học sinh còn hạn chế về Năng lực - Phẩm chất môn Tiếng Việt Lớp 1
A. ĐẶT VẤN ĐỀ Lớp 1 được xem là một bước ngoặt lớn trong cuộc đời của một đứa trẻ, mang ý nghĩa quyết định và là sự khởi đầu cho cả quá trình học tập lâu dài của trẻ sau này. Bước vào lớp Một là bước qua một cánh cửa mới, đến với một môi trường mới. Việc dạy đọc cho các em thật vô cùng quan trọng bởi các em có đọc tốt được ở lớp 1 thì khi học các lớp tiếp theo các em mới nắm bắt được những yêu cầu cao hơn của môn Tiếng Việt. Bước vào lớp 1 bắt đầu học đọc, học viết nên các em lớp 1 còn nhiều bỡ ngỡ và tiếp thu kiến thức thật khó khăn, một số em chưa nắm vững các chữ cái. Nếu không được quan tâm, rèn luyện thì chất lượng học tập của các em không cao. Theo tôi để nâng cao chất lượng đọc cho học sinh phải giúp học sinh nắm được kiến thức cơ bản ngay từ lớp 1 bởi đây là nền móng cho sự phát triển của học sinh sau này. Với học sinh lớp 1 điều quan trọng nhất là đọc, viết được, có đọc được tốt học sinh mới hiểu được nội dung văn bản và lên lớp trên mới học tốt được các môn học khác. Mà đa số các em học đọc còn chưa tốt đều do chưa thuộc kĩ âm vần, chưa đọc thông viết thạo cho nên việc giúp học sinh còn hạn chế về Năng lực - Phẩm chất để học tốt môn Học vần rất quan trọng. Mà đây là nhiệm vụ trọng tâm của mỗi lớp: nâng cao chất lượng giáo dục nói chung. Đó là lí do tôi chọn” Một số biện pháp rèn đọc học sinh còn hạn chế về Năng lực - Phẩm chất môn Tiếng Việt lớp 1 ” để nghiên cứu và áp dụng vào thực tế lớp tôi chủ nhiệm, mong muốn các em đều đọc, viết tốt, có nền móng cơ bản để học các lớp trên. B . GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1. Cơ sở lí luận Môn Tiếng Việt ở trường Tiểu học có nhiệm vụ vô vùng quan trọng, đó là hình thành 4 kỹ năng: Nghe - nói - đọc - viết cho học sinh.. Dạy tốt môn Tiếng Việt không những rèn luyện cho học sinh kĩ năng đọc mà còn phát triển cho các em vốn từ ngữ phong phú tạo điều kiện để các em học tốt các phân môn khác. Đó là những kĩ năng cơ bản, nền tảng, có tính chất công cụ giúp các em học tốt môn Tiếng Việt cũng như các môn học khác trong nhà trường phổ thông. “Đối với Tiểu học, Tiếng Việt là tất cả!” Nhiệm vụ quan trọng nhất của dạy 3 mạnh, trong sáng, có thái độ ứng xử đúng trong cuộc sống, tạo sự hứng thú đọc sách và yêu thích Tiếng Việt. Đối với lớp Một kiến thức trong phần Học vần mà các em cần nắm là những hiểu biết ban đầu về âm và chữ cái, thanh và các dấu thanh, cấu tạo vần, tiếng; nắm thêm từ 200 đến 300 từ; nhận biết cách dùng dấu chấm, dấu phẩy, dấu chấm hỏi, làm quen các dạng văn vần, văn xuôi, các câu chuyện kể. Ưu tiên hình thành và phát triển nhiều 2 kĩ năng đọc, viết ở giai đoạn này để giúp học sinh cuối lớp 1 có thể đọc thông, viết thạo tiếng Việt. 2. Thực trạng Vào đầu năm học tôi đã tiến hành khảo sát lớp mình đang dạy, lớp 1B trường Tiểu học Châu Sơn. Kết quả như sau: 23/23 em đều qua lớp mẫu giáo. Trong 2022 do ảnh hưởng của dịch covid nên các em ít được đến trường học mầm non nên qua sự kiểm tra sự nắm bắt, nhận diện chữ cái đã học trong trường mầm non thì có 13 em nhận diện hết bảng chữ cái; 10 em biết 4 - 10 chữ cái. Như vậy, tỉ lệ học sinh nhận diện một cách chắc chắn chính xác bảng chữ cái quá thấp dẫn đến kết quả học chưa cao. Học sinh lớp Một còn nhỏ chưa ý thức được tầm quan trọng của việc học và tự học. Vốn từ của các em còn quá ít ỏi, việc hiểu nghĩa của từ còn hạn chế. Bên cạnh đó kĩ năng đọc, nói, viết, nghe chưa thực sự tốt. Đặc điểm trẻ lớp 1 mau nhớ chóng quên, tư duy bằng hình ảnh trực quan sinh động mới hấp dẫn các em. Một trong những lí do dễ thấy là các em chưa được sự quan tâm của gia đình, cha mẹ bận rộn với công việc làm ăn nên các em ở với ông bà. Có em chưa có động cơ học tập đúng đắn, chưa chăm học. Một số em người sở tại còn nhút nhát, hoàn cảnh gia đình khó khăn chưa đủ điều kiện học tập, vốn tiếng Việt của cha mẹ và các em hạn chế. Các em học yếu Tiếng việt do không nhớ được cách đọc, viết các chữ cái, chữ ghép, các vần nên không thể ghép thành tiếng, từ, dẫn đến không hiểu các văn bản khác. Cho nên giúp các em đọc tốt ngay từ lớp 1 rất quan trọng. Nhận thấy rõ được những khó khăn cơ bản tôi đã thực hiện một số biện pháp: Rèn cho học sinh còn hạn chế về Năng lực - Phẩm chất môn Tiếng Việt để giúp các em học tốt hơn. sau. Để thực hiện hoạt động giới thiệu những nét cơ bản, tôi phân loại các nét có tên gọi và cấu tạo gần giống nhau thành từng nhóm, để các em dễ nhận biết và so sánh. Các nét chữ cơ bản và tên gọi đã được phân loại như sau: Nhóm 1 Nét sổ thẳng Nét ngang Nét xiên phải (giống dấu thanh huyền) Nét xiên trái (giống dấu thanh sắc) Nhóm 2 Nét móc xuôi (chữ l) Nét móc ngược (chữ n, m) Nét móc hai đầu (chữ h, p, ph) Nhóm 3 Nét cong hở phải (chữ c) Nét cong hở trái (chữ x) Nét cong kín (chữ o, ô, ơ) Nhóm 4 Nét khuyết trên (chữ h, l, b) Nét khuyết dưới (chữ g, y) Nét thắt (chữ b, v, r) Nét khuyết có nét thắt ở giữa (chữ k) Tôi chuẩn bị những đoạn video, những bài dạy, những trò chơi sinh động về nhóm nét cơ bản để học sinh học và chơi giúp các em dễ thuộc các nét hơn tạo nên hứng thú học tập cho các em. Gọi học sinh đọc tên gọi các nét nối tiếp nhau, đọc xuôi đọc ngược nhiều lần để các em nhớ. Để khai thác vốn hiểu biết sẵn có và khắc sâu kiến thức của các em bằng cách tổ chức trò chơi:” Đoán nét chữ” trong hoạt động củng cố. Dựa vào các nét cơ bản này mà học sinh phân biệt được các chữ cái và thu hút các em tập trung hơn. Ví dụ: Đố con, chữ a gồm có nét gì? Chữ a: nét cong kín và nét móc. Đố con, chữ gì có nét cong kín? Chữ o (ô,ơ). Tôi đã tuyên dương các em trả lời tốt bằng những bông hoa hay tràng pháo tay thật to. Vì các em rất thích được cô, thầy khen dưới mọi hình Sau khi học xong phần đọc, tôi còn giúp các em nhớ các âm ghép bằng cách cho viết bảng con đưa vào ngữ cảnh: tôi đưa hình ảnh hoặc nêu tên gọi các con vật, đồ vật gần gũi với các em bắt đầu bằng các âm ghép. Ví dụ: ch (chó), nh (nhà), th (thỏ), kh (khỉ), gh (ghế), ph (phở), ngh (nghệ), ng (ngủ), gi (giỏ), ... Sau đó, tôi trang trí ngay góc học tập các hình ảnh có gắn với các âm ghép để các em nhìn, đọc hàng ngày. (Hình ảnh kèm theo ở phụ lục) Để các em yếu phát âm và phân biệt: ch - tr, ng - ngh, c - k, g - gh, s - x, ... tôi đọc cho các em viết bảng con rồi sau đó cho luyện tập theo nhóm đôi: luân phiên nhau một em đọc rồi cả hai viết bảng con, với cách làm này để phát huy vai trò các em giỏi hỗ trợ giáo viên giúp đỡ các em yếu. Để kiểm tra mức độ nắm bài của các em, trong giờ cuối buổi học ... có thể tổ chức trò chơi: Viết ra bảng con chỉ là một từ, một câu văn không lấy trong sách giáo khoa. Học sinh đọc to các bài của bạn, nếu học sinh không đọc được thì giáo viên rèn đọc tiếp. Hay tiếp tục cho học sinh thi tìm tiếng, từ có vần âm, vần mới học, các em rất hào hứng và phấn khởi tham gia sôi nổi nhiệt tình. Khuyến khích các còn yếu nêu tiếng, từ và chỉ ra âm, vần đã học có trong tiếng từ đó. Đến khi học sinh viết vào bảng con, tôi cũng không đọc cho học sinh viết những tiếng và từ đã có sẵn trong bài mà cho các em viết từ tìm được vào bảng. Để củng cố và khắc sâu kiến thức về âm, vần cho học sinh, hàng ngày tôi thường cho các em đọc ở bảng âm vần, nhất là học sinh yếu cho đọc nhiều lần không theo thứ tự, để giúp các em nhớ một cách chắc chắn. Ngoài bảng âm, vần trang trí tại góc học tập tôi còn in cho các em yếu một bảng để học ở nhà.( Hình ảnh kèm theo trong phụ lục) Trong số các âm, vần đã học, học sinh trong lớp chưa được học do nghỉ học hoặc chưa nắm chắc thì mới ôn âm vần đó. Điều này yêu cầu tôi phải thường xuyên theo dõi sát từng đối tượng học sinh, để xác định âm vần nào cần ôn chứ không ôn tập tràn lan. Ví dụ 1: Khi dạy âm th - ia: Lớp tôi có em Tú -Thơ chưa thuộc âm th tôi gọi các em đó đánh vần và đọc các tiếng có âm th : tiếng “thư”, tiếng “thu” trong từ “cá Ví dụ: Bốn chú lợn con Ve vẻ vè ve Vè bốn chú lợn Nhởn nhơ nô giỡn Ăn ngủ vô tư. Hẳn họ nhà “Trư” Là to tròn thế Ve vè nghe kể Bốn chú lợn con. Hướng dẫn học sinh đọc ngược từ cuối câu lên đầu câu như sau: Con/ lợn/ chú/ bốn Kể/ nghe/ vè/ ve Thế/ tròn/ to/ là Trư/ nhà/ họ/ hẳn Tư/ vô/ ngủ / ăn Giỡn/ nô/ nhơ/ nhởn Lợn/ chú/ bốn/ vè Ve/ vè/ vẻ/ ve Con/ lợn / chú/ bốn Khi dạy bài mới, cho học sinh so sánh vần vừa giúp các em nhớ lại các vần đã học và nắm vững vần mới hơn. Học sinh còn yếu cho nhắc lại điểm giống nhau, khác nhau theo gợi ý của giáo viên. Ví dụ : an - ăn - ân, on - ôn - ơn, en - ên - in - un, am - ăm - âm, om - ôm - ơm, em- êm - im - um, ai - oi- ôi- ơi, ui- ưi, ay- ây, ao -eo, au- âu- êu, iu, ưu, ac- ăc- âc, oc- ôc- uc- ưc, at- ăt- ât, ot - ôt- ơt, et- êt- it, ut- ưt, ap- ăp- âp, op- ôp- ơp, ep- êp- Sau một thời gian ngắn thực hiện biện pháp, tôi nhận thấy các đôi bạn đọc tốt hơn rất nhiều. Bên cạnh đó, các đôi bạn còn biết chia sẻ với nhau viên phấn, cái tẩy... 3.6. Sử dụng trò chơi tạo hứng thú đọc cho học sinh Trên thực tế, hiện nay, GV thường chú trọng tới việc dạy kiến thức, kĩ năng cho HS chứ chưa quan tâm nhiều đến việc HS có thích học hay không. Đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến các tiết học Học vần rất nhàm chán, đơn điệu, hiệu quả không cao. Vì vậy, trong quá trình dạy Học vần tôi đã sử dụng phương pháp trò chơi để giúp trẻ vừa thoả mãn nhu cầu được chơi, được giải trí của trẻ vừa góp phần phát triển kĩ năng đọc cho trẻ. Tôi kết hợp sử dụng các phương tiện dạy học hỗ trợ nhằm khơi gợi trí tò mò, óc sáng tạo của học sinh. Trò chơi học tập là một hoạt động mà các em hứng thú nhất. Các trò chơi có nội dung lý thú và bổ ích phù hợp với việc nhận thức của các em. Thông qua các trò chơi các em sẽ lĩnh hội kiến thức một cách dễ dàng, củng cố, khắc sâu kiến thức một cách vững chắc, tạo cho các em niềm say mê, hứng thú trong học tập Tôi xây dựng một ngân hàng trò chơi đơn giản, dễ hiểu, dễ nhớ và dễ tổ chức như: Đi chợ, tìm tiếng chứa vần, chuyền thư cho bạn, chèo thuyền, ai nhanh hơn,.... Khi tổ chức trò chơi cho HS trong giờ học vần cần lưu ý: + Lựa chọn trò chơi phù hợp, vừa sức học sinh + Xác định rõ mục tiêu trò chơi + Luật chơi rõ ràng, dễ hểu + Nhiều học sinh được tham gia chơi trò chơi. 3.7. Ứng dụng công nghệ thông tin vào giờ học Cả thế giới đang không ngừng tiến bộ cùng với sự đi lên của công nghệ thông tin. Đất nước ta đang trong thời kì đổi mới toàn diện, thời kì hội nhập và toàn cầu hóa. Chính vì vậy, việc tiếp nhận những công nghệ mới của nhân loại trong đó có công nghệ thông tin là điều tất yếu, đây là yếu tố khách quan để khẳng định sự phát triển của mỗi quốc gia. Sự phát triển của một đất nước luôn phụ thuộc vào sự phát triển của khoa học công nghệ. Tuy nhiên, để có được một nền khoa học công nghệ phát triển thì nền kinh tế tri thức phải được ưu tiên hàng đầu, việc ứng dụng công luôn sưu tầm tài liệu, sách tham khảo về cách rèn phát âm cho học sinh, rèn đọc cho học sinh và phải làm thường xuyên, liên tục trong mọi tiết học. Và cần phải nâng cao yêu cầu lên từng bài, từng giai đoạn để học sinh tiến bộ. Việc rèn cho học sinh còn hạn chế về Năng lực- Phẩm chất môn Tiếng Việt 1 không chỉ tập trung ở những giờ Tiếng Việt trên lớp mà phải thường xuyên đọc bài ở nhà, đặc biệt là phải chuẩn bị thật tốt bài cũ và bài mới trước khi lên lớp. Thế nhưng, đối với học sinh lớp 1 nề nếp tự học của các em ở nhà còn hạn chế, đòi hỏi phải có sự hỗ trợ, giúp đỡ và hướng dẫn thường xuyên của phụ huynh. Phối hợp giữa giáo viên và phụ huynh bằng nhóm Zalo của lớp. Ngoài ra, phương pháp giảng dạy và học tập của môn Tiếng Việt lại có điểm mới. Vì vậy, cần thống nhất cách giảng dạy giữa nhà trường và gia đình tạo điều kiện giúp các em học tốt, cụ thể là cách đánh vần, cách đọc bài trong sách cũng như yêu cầu cần đạt của học sinh qua từng bài học. Hướng dẫn học sinh đọc, viết ngay các âm, vần vừa học trong ngày, đồng thời hướng dẫn các em chuẩn bị bài mới thật chu đáo. Để nâng cao chất lượng đọc ở lớp 1 thì giáo viên cần sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học, chú trọng phương pháp trực quan. Cho học sinh ghi nhận âm, vần bằng con chữ qua hình ảnh trực quan, bài giảng điện tử, video sinh động gần gũi với các em học sinh. Có như vậy mới duy trì được sự chú ý của học sinh, khai thác từ vốn hiểu biết sẵn có của các em thành kiến thức. Cho nên đồ dùng trực quan phải khoa học, phù hợp nội dung và thực tế, khai thác đúng lúc, đúng chỗ. Giáo dục học sinh lòng ham đọc sách, hình thành phương pháp và thói quen làm việc với sách cho học sinh. Mỗi tuần đọc cho các em nghe một câu chuyện. Khuyến khích các em đọc sách tại góc thư viện lớp, thư viện trường cũng giúp các em tăng vốn từ Tiếng việt. 4. Hiệu quả Để có đánh giá sự tiến bộ của các em học sinh lớp 1B trường Tiểu học Châu Sơn, dựa vào bài kiểm tra môn Tiếng việt tại các thời điểm cuối kì 1 và giữa kì 2 năm học 2022 - 2023. Kết quả như sau: Thời điểm Hạn chế về Năng lực- phẩm chất
File đính kèm:
- skkn_mot_so_bien_phap_ren_doc_hoc_sinh_con_han_che_ve_nang_l.docx