Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao chất lượng giảng dạy mạch kiến thức Giải toán có lời văn ở Lớp 1

doc 16 trang sklop1 15/12/2023 2760
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao chất lượng giảng dạy mạch kiến thức Giải toán có lời văn ở Lớp 1", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao chất lượng giảng dạy mạch kiến thức Giải toán có lời văn ở Lớp 1

Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao chất lượng giảng dạy mạch kiến thức Giải toán có lời văn ở Lớp 1
 PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
 Đối với môn Toán lớp 1, môn học có vị trí nền tảng, là cái gốc, là điểm xuất 
phát của cả một bộ môn khoa học. Môn Toán mở đường cho các em đi vào thế 
giới kỳ diệu của toán học, giúp các em biết vận dụng những kiến thức đã học vào 
cuộc sống hằng ngày một cách thực tế.Qua thực tế giảng dạy nhiều năm tôi nhận 
thấy học sinh còn nhiều khiếm khuyết trong giải toán. Đặc biệt là giải toán có lời 
văn.
 Từ cơ sở lý luận và thực tiễn, qua thực tế giảng dạy tôi xin mạnh dạn đề xuất một 
số kinh nghiệm: «Nâng cao chất lượng giảng dạy mạch kiến thức“Giải toán có lời 
văn”ở lớp 1A trường tiểu học Nguyễn Bá Ngọc năm học 2017-2018”
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài:
 Trong các môn khoa học và kỹ thuật, toán học giữ một vị trí nổi bật. Nó có tác 
dụng lớn đối với kỹ thuật, với sản xuất và chiến đấu. Nó là một môn thể thao của 
trí tuệ, giúp chúng ta nhiều trong việc rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương 
pháp suy luận, phương pháp học tập, phương pháp giải quyết các vấn đề, giúp 
chúng ta rèn luyện trí thông minh sáng tạo. Nó còn giúp chúng ta rèn luyện nhiều 
đức tính quý báu khác như: Cần cù và nhẫn nại, tự lực cánh sinh, ý chí vượt khó, 
yêu thích chính xác, ham chuộng chân lý. Để đáp ứng những yêu cầu mà xã hội đặt 
ra, Giáo dục và đào tạo phải có những cải tiến, điều chỉnh, phải thay đổi về nội dung 
chương trình, đổi mới phương pháp giảng dạy cho phù hợp. Phương pháp giáo dục 
phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh; phù 
hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn 
luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm 
vui, hứng thú học tập cho học sinh.
3. Đối tượng nghiên cứu:
 Phương pháp nâng cao chất lượng giảng dạy mạch kiến thức “Giải toán có lời văn” 
ở lớp Một”, nhằm nâng cao chất lượng dạy học đối với học sinh lớp 1A trường Tiểu 
học Nguyễn Bá Ngọc.
4. Giới hạn, phạm vi nghiên cứu:
 1 
 Với những tình huống khó có thể phối hợp với các phương pháp khác để giúp 
học sinh thuận lợi cho việc làm bài như : Phương pháp thảo luận nhóm, phương 
pháp kiến tạo ...
 PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận:
 Trong các mạch kiến thức toán ở chương trình toán Tiểu học thì mạch kiến 
thức “Giải toán có lời văn” là mạch kiến thức khó khăn nhất đối với học sinh, và 
càng khó khăn hơn đối với học sinh lớp Một. Bởi vì đối với lớp Một: Vốn từ, vốn 
hiểu biết, khả năng đọc hiểu, khả năng tư duy lôgic của các em còn rất hạn chế. 
Một nét nổi bật hiện nay là nói chung học sinh chưa biết cách tự học, chưa học 
tập một cách tích cực. Nhiều khi với một bài toán có lời văn các em có thể đặt và 
tính đúng phép tính của bài nhưng không thể trả lời hoặc lý giải là tại sao các em 
lại có được phép tính như vậy. Thực tế hiện nay cho thấy, các em thực sự lúng 
túng khi giải bài toán có lời văn. Một số em chưa biết tóm tắt bài toán, chưa biết 
phân tích đề toán để tìm ra đường lối giải, chưa biết tổng hợp để trình bày bài 
giải, diễn đạt vụng về, thiếu lôgic. Ngôn ngữ toán học còn rất hạn chế, kỹ năng 
tính toán, trình bày thiếu chính xác, thiếu khoa học, chưa có biện pháp, phương 
pháp học toán, học toán và giải toán một cách máy móc nặng về dập khuôn, bắt 
chước.
 2. Thực trạng:
 - Về đồ dùng dạy học:
 Tư duy của học sinh lớp Một là tư duy cụ thể, để học sinh học tốt “Giải toán 
có lời văn” trong quá trình giảng dạy rất cần đồ dùng thiết bị dạy học để minh 
hoạ.
Trong những năm qua, các trường tiểu học đã được cung cấp khá nhiều trang 
thiết bị và đồ dùng dạy học cho từng khối lớp nhưng thống kê theo danh mục thì 
số lượng vẫn chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu dạy “Giải toán có lời văn”.
 - Về giáo viên
 Vẫn còn một số giáo viên chuyển đổi phương pháp giảng dạy còn lúng túng, 
chưa phát huy được tính tích cực chủ động của học sinh, phương pháp dạy học 
truyền thống đã ăn sâu vào tư duy vào lề lối dạy học hàng ngày. Một số giáo viên 
 3 
 Qua tổng hợp kết quả kiểm tra khảo sát ở cuối năm học 2017-2018 (với đề bài 
tương tự) số học sinh còn sai sót là rất ít hơn năm học trước là vì:
 - Giáo viên đã chủ động cho học sinh làm quen với giải toán có lời văn ngay từ 
bài: Phép cộng trong phạm vi 3 ( Tuần 7) và tiếp tục làm quen nâng dần ở các 
tuần tiếp theo. Nhờ vậy, đến tuần 23 chính thức bước vào giải toán có lời văn thì 
phần lớn các em đã nắm được trình tự để giải bài toán có lời văn.
 - Ngoài đồ dùng dạy học có sẵn, tôi còn đầu tư làm thêm các mô hình con vật, các 
hình nhằm phục vụ tốt cho tiết học
Thực tế cho thấy chương trình môn toán lớp 1 còn nặng ở một số bài, một số tiết về 
“Giải toán có lời văn” . Phần thời gian dành cho “Giải toán có lời văn” thường ở cuối 
tiết nên đôi khi bị phần trên lấn sang, làm cho nội dung này phải thực hiện một cách 
vội vàng, chưa thoả đáng.
 Còn có vướng mắc về từ ngữ đối với học sinh lớp 1 nên cũng là một khó khăn trở 
ngại đối với giáo viên trong dẫn dắt gợi mở cho học sinh.
 Lời kết: Người xưa nói: “Ngôn dị – hành nan”, nói dễ làm khó. Tuy vậy tôi khẳng 
định với các bạn đồng nghiệp: Trên đây là những điều hết sức tâm huyết mà tôi đã 
thực hiện và thu được những kết quả rất khả quan trong hơn 2 năm học vừa qua. 
 * Phần lớn học sinh biết làm bài toán có lời văn. Kết quả của bài toán đúng.
 - Học sinh ham học, có hứng thú học tập môn Toán nói chung và “Giải bài toán có 
lời văn” nói riêng.
 - Học sinh bước đầu biết vận dụng bài toán có lời văn vào thực tế.
 - Trình bày bài làm còn chưa sạch đẹp.
 - Một số học sinh chưa biết cách đặt câu lời giải phù hợp.
 - Một số ít học sinh không hiểu nội dung bài toán có lời văn dẫn đến không làm 
được bài.
 * Tư duy của học sinh lớp Một là tư duy cụ thể, để học sinh học tốt “Giải toán 
có lời văn” trong quá trình giảng dạy rất cần đồ dùng thiết bị dạy học để minh 
hoạ.
Trong những năm qua, các trường tiểu học đã được cung cấp khá nhiều trang 
thiết bị và đồ dùng dạy học cho từng khối lớp nhưng thống kê theo danh mục thì 
số lượng vẫn chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu dạy “Giải toán có lời văn”.
 5 
được chính thức học cách giải "Bài toán có lời văn" song chúng ta đã có ý ngầm 
chuẩn bị từ xa cho việc làm này ngay từ bài "Phép cộng trong phạm vi 3 (Luyện 
tập) " ở tuần 7.
 Bắt đầu từ tuần 7 cho đến các tuần 35 trong hầu hết các tiết dạy về phép cộng, 
trừ trong phạm vi (không quá) 10 đều có các bài tập thuộc dạng "Nhìn tranh nêu 
phép tính" ở đây học sinh được làm quen với việc: 
 - Xem tranh vẽ.
 - Nêu bài toán bằng lời.
 - Nêu câu trả lời.
 - Điền phép tính thích hợp (với tình huống trong tranh).
 Ví dụ: Sau khi xem tranh vẽ ở trang 46 (SGK), học sinh tập nêu bằng lờ: "Có 1 
quả bóng trắng và 2 quả bóng xanh. Hỏi có tất cả mấy quả bóng?" rồi tập nêu 
miệng câu trả lời: "có tất cả 3 quả bóng", sau đó viết vào dãy năm ô trống để có 
phép tính: 
 1 + 2 = 3
+ Dạy "Giải bài toán có lời văn" ở lớp 1.
 Quy trình " Giải bài toán có lời văn " thông thường qua 4 bước: 
 - Đọc và tìm hiểu đề bài.
 - Tìm cách giải bài toán.
 - Trình bày bài giải
 - Kiểm tra lại bài giải.
b. Nội dung và cách thực hiện giải pháp, biện pháp:
+ Đọc và tìm hiểu đề toán
 Muốn học sinh hiểu và có thể giải được bài toán thì điều quan trọng đầu tiên là 
phải giúp các em đọc và hiểu được nội dung bài toán. Giáo viên cần tổ chức cho 
các em đọc kỹ đề toán, hiểu rõ một số từ khoá quan trọng như " thêm, và, tất cả, 
... " hoặc "bớt, bay đi, ăn mất, còn lại , ..." (có thể kết hợp quan sát tranh vẽ để hỗ 
trợ). Để học sinh dễ hiểu đề bài, giáo viên cần gạch chân các từ ngữ chính trong 
đề bài. Một số giáo viên còn gạch chân quá nhiều các từ ngữ, hoặc gạch chân các 
từ chưa sát với nội dung cần tóm tắt. Khi gạch chân nên dùng phấn màu khác cho 
dễ nhìn.
 7 
Có tất cả:.....con thỏ?
 Với các cách tóm tắt trên sẽ làm cho học sinh dễ hiểu và dễ sử dụng.
 Với cách viết thẳng theo cột như: 14 quyển và 26 quả
 12 quyển 33 quả
 ... quyển ? ... quả?
 Kiểu tóm tắt như thế này khá gần gũi với cách đặt tính dọc nên có tác dụng gợi 
ý cho học sinh lựa chọn phép tính giải.
 Giai đoạn đầu nói chung bài toán nào cũng nên tóm tắt rồi cho học sinh dựa 
vào tóm tắt nêu đề toán. Cần lưu ý dạy giải toán là một quá trình không nên vội 
vàng yêu cầu các em phải đọc thông thạo đề toán, viết được các câu lời giải, phép 
tính và đáp số để có một bài chuẩn mực ngay từ tuần 23, 24. Chúng ta cần bình 
tĩnh rèn cho học sinh từng bước, miễn sao đến cuối năm (tuần 33, 34, 35) trẻ đọc 
và giải được bài toán là đạt yêu cầu. 
 + Tìm cách giải bài toán.
 Sau khi giúp học sinh tìm hiểu đề toán để xác định rõ cái đã cho và cái phải 
tìm.
Chẳng hạn: Nhà An có 5 con gà, mẹ mua thêm 4 con gà. Hỏi nhà An có tất cả 
mấy con gà?
 - Bài toán cho gì? (Nhà An có 5 con gà)
 - Còn cho gì nữa? (Mẹ mua thêm 4 con gà)
 - Bài toán hỏi gì? (Nhà An có tất cả mấy con gà?)
 Giáo viên nêu tiếp: "Muốn biết nhà An có tất cả mấy con gà em làm tính gì? 
(tính cộng) Mấy cộng mấy? (5 + 4) ; 5 + 4 bằng mấy? (5 + 4 = 9); hoặc: "Muốn 
biết nhà An có tất cả mấy con gà em tính thế nào? (5 + 4 = 9); hoặc: "Nhà An có 
tất cả mấy con gà ?" (9) Em tính thế nào để được 9 ? (5 + 4 = 9).
 Tới đây giáo viên gợi ý để học sinh nêu tiếp "9 này là 9 con gà", nên ta viết 
"con gà" vào trong dấu ngoặc đơn: 5 + 4 = 9 (con gà).
 Sau khi học sinh đã xác định được phép tính, nhiều khi việc hướng dẫn học 
sinh đặt câu lời giải còn khó hơn việc chọn phép tính và tính ra đáp số. Với học 
 9 
 Đáp số : 9 con gà 
 Nếu lời giải ghi: "Số gà nhà An là:" thì phép tính có thể ghi: “5 + 4 = 9 (con)”. 
(Lời giải đã có sẵn danh từ "gà").
 Giáo viên cần hiểu rõ lý do tại sao từ "con gà" lại được đặt trong dấu ngoặc 
đơn? Đúng ra thì 5 + 4 chỉ bằng 9 thôi (5 + 4 = 9) chứ 5 + 4 không thể bằng 9 con 
gà được. Do đó, nếu viết:"5 + 4 = 9 con gà" là sai. Nói cách khác,nếu vẫn muốn 
được kết quả là 9 con gà thì ta phải viết như sau mới đúng: "5 con gà + 4 con gà = 
9 con gà". Song cách viết phép tính với các đơn vị đầy đủ như vậy khá phiền phức 
và dài dòng, gây khó khăn và tốn nhiều thời gian đối với học sinh lớp 1. Ngoài ra 
học sinh cũng hay viết thiếu và sai như sau: 
 5 con gà + 4 = 9 con gà 
 5 + 4 con gà = 9 con gà 
 5 con gà + 4 con gà = 9
 Về mặt toán học thì ta phải dừng lại ở 9, nghĩa là chỉ được viết 5 + 4 = 9 thôi.
 Song vì các đơn vị cũng đóng vai trò rất quan trọng trong các phép tính giải 
nên vẫn phải tìm cách để đưa chúng vào phép tính. Do đó, ta mới ghi thêm đơn vị 
"con gà" ở trong dấu ngoặc đơn để chú thích cho số 9 đó. Có thể hiểu rằng chữ 
"con gà” viết trong dấu ngoặc đơn ở đây chỉ có một sự ràng buộc về mặt ngữ 
nghĩa với số 9, chứ không có sự ràng buộc chặt chẽ về toán học với số 9. Như 
vậy cách viết 5 + 4 = 9 (con gà) là một cách viết phù hợp. 
+ Kiểm tra lại bài giải
 Học sinh Tiểu học đặc biệt là học sinh lớp Một thường có thói quen khi làm bài 
xong không hay xem, kiểm tra lại bài đã làm. Giáo viên cần giúp học sinh xây 
dựng thói quen học tập này.Cần kiểm tra về lời giải, về phép tính, về đáp số hoặc 
tìm cách giải hoặc câu trả lời khác. 
 Kiến thức Toán học vốn bắt nguồn từ đời sống thực tế, nếu trong khi dạy, giáo 
viên liên hệ thực tế để học sinh tìm kiến thức thì các em làm bài tập tốt hơn, hứng thú 
hơn. Ngược lại sau mỗi hoạt động hoặc mỗi bài, giáo viên cần liên hệ thực tế để giáo 
dục các em vận dụng những điều đã học vào cuộc sống. Có như vậy, các em mới cảm 
thấy kiến thức bài học thật gần gũi, yêu thích môn học hơn.
 Với bài tập này, giáo viên có thể liên hệ ngoài việc viết về những nhân vật mà 
các em được học, được xem trên báo, đài các em có thể viết về những bạn trong lớp, 
 11

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_nang_cao_chat_luong_giang_day_mach_kie.doc